Home TàuCộng KhóThắng BiểnĐông Tham-Luận Biển Đông Hải-phận Cho Quốc-Gia Lào ThủĐoạn TiêuDiệt VănHóa BảnĐồ ThuyếtTŕnh Edm&Calgary Dự-Án Song-Tử Tàu TrungCộng Cắt Cáp Tàu ThămḌ VN Biển Đông 74,000 năm trước Hải-đồ DângGiặc Bản-Đồ Bắc TrườngSa BảnĐồ MalaysiaViệtNam Nước Việt H́nh Chữ S RVN-CDWR-MainBody.pdf Hải Phận Triệu Km2 Hải Phận Triệu Km2 (Tiếp) Hải Phận Valencia TàiLiệu PhápLư BảnĐồBiênGiớiViệt-Hoa Bản-đồ Phân-Chia Vịnh Bắc-Việt VịnhBắcViệt LáThư Gởi Đầy Tớ Law of the Sea Forum Openings RVN WhitePaper75 ChinaPropaganda-LuuVanLoi TiếngNóiVịnhBắcViệt VấnĐềBiênGiới-BsNguyenĐanQuế HảiGiới ViệtHoa Vùng Biển Sâu Cho Tương-Lai LêChíQuangPhảnĐối CácĐội HoàngSa NamQuan BiểnĐông ThiênKỷMới Biển Đông Ô Nhiễm VịnhBắcViệt-HàngHải VịnhBắcViệt-HuyềnThoại NguyễnNhă-NghiênCứu HoàngSa Chủ Quyền HoàngTrường HảiThươngBiểnĐôngCổThời BsTrầnĐạiSỹTổngKếtHảiChiến HảiChiếnHoàngSaNóiChuyện Hải Chiến Hoàng Sa HQ16ĐàoDân HảiChiếnHoàngSaTrầnThếĐức VĩnhLiêmHoàngSaHảiChiến Chuyện Một Con Tàu NgườiBạnHảiQuân BạnTôiSầuĐông HồngNhanMộtThời CâyĐinh NhữngÔngThánh ĐờiSống CăngThẳng HỗnChiến NgỗngTuyết NgườiĐànBà C̣nNụCườiNào SóiGià SachMoiNgoTheVinh TranhCổTấnTinhChâu HảiQuân C̣n Mất TuầnThám NguyễnVănƠn FutureDestroyer Mischief Situation DER-HQ4 To Chuc HQVNCH Forgotten ASPB Études Vietnamiennes Environments'Protection VN Water Culture Legends-Water Realm Useful Books&Maps VN Sovereignty Vietnam Energy Raft Across Pacific Triết Lư Nước HảiQuânViệtNam TừBaoGiờ Hàng Hải Gốc Rễ Việt Nam Địa Lư Biển Đông Thuật Ngữ Hàng Hải NgườiViệt KhámPhá MỹChâu Ngày HảiQuân1973 Lịch Sử Thuyền Bè Bài Vè Thủy Tŕnh Petrus Kư&VănHoá Thuyền Photo Album Người Thủy Thủ Già SoạnThảo HảiSử MộtNgàyVớiĐĐCang Lược Sử Nước PhanQuỳnh NguyễnVănLục HT Nguyễn Văn Lộc VũNgọcRuẩn BốTôi VũVănToàn ThơVăn HoàngĐ́nhBáu KỷNiệm ĐờiQuânNgũ ChiếcB́nh TháiLọ ChânDung SVSQHQXI BảoB́nh&H́nhẢnh Quê Nhà 50 Năm Trở Lại ChuVănAn2B3-1956 Giải Ảo! HăyTỉnh Giấc Mơ Ma AnhHùng NguyễnThànhSắc ThuỷThủĐoàn HQ-4 ChiếnThuật ĐầuChữ T HìnhẢnh HQ4 HảiChiến HoàngSa TrangH́nh HảiChiến HoàngSa Trận HoàngSa Hồ Hải Hải-Chiến theo Trung-Cộng Hải-Chiến theo BùiThanh Diễn-Tiến Trận Hải-Chiến TâySa HảiChiến QuanBinhTC HoàngSa1974 HQ16-HQ5 Bắn Nhau HQ5-Ră Ngũ Đại-Tá Ngạc Ở Đâu ChuyệnMột ConTàu Bông Hồng Cho Nhựt-Tảo Danh-Sách Tử-Sĩ Hoàng-Sa DanhSách CốThủ HoàngSa TrươngVănLiêm-HQ5 TruyệnNựcCười MấyAnh SửaQuân-Sử Lệnh TamBấtĐả-HứaThếHữu AnhHùng BH NguyễnVănVượng TưởngNiệm AnhHùng NguyễnVănĐồng Phạm Ngọc Đa AnhHùng Tử-Sĩ TaoBanNuocKhong VĩnhBiệt NguyênNhi CáchNhìn LịchSử XâmLược NgườiLínhGiàHQ4 NgôThếLong NguyễnThượngLong-HảiChiến HoàngSa NguyễnThượngLong-T́mMăi YêuThương VănTế 74 TửSĩ HảiChiến HoàngSa Nhớ lại HCHS & SuyNgẫm HànhQuân TrầnHưngĐạo47 Bộ H́nh ChiếnTrường HQ-4 Tài-Liệu CTCT/VNCH Các ChiếnHạm VN&TC ThamChiến TàiLiệuHQ4-TổngCụcCTCT Lố bịch kiểu Tàu phù Hải-Chiến theo LữCôngBảy Pḥng-Tai của HQ-4 Tiểu-Sử Anh-Hùng Tử-Sĩ TrầnVănĐảm-AnhHùng&Nhà VôĐịch AnhHùng BùiQuốcDanh VũĐ́nhQuang-AnhHùngHảiPháo Anh-Hùng Vương-Thương VưongThếTuấn: HQ4 Xin Rút Lui Người AnhHùng HoàngSa Thư HT PhạmTrọngQuỳnh Thư Bạn ĐồngMôn ChuVănAn T́m Hiểu Gerald Kosh Văn Tế HoàngSa Những BàiCa HảiChiến HS Thư Người Giám-Lộ BứcThư 15 Năm 24 Years After Naval Battle Tiểu Sử Vũ Hữu San Tựa ToànTập Tổng-kết Hải-Chiến Hồi Kư Của NgườiVề Từ HoaLục Thư Riêng Về Đơn-Vị Giới Thiệu Gặp lại Niên-Trưởng NBT TrùmMền HôXungPhong
|
|
VĨNH BIỆT
Nhà
Văn Nhà Thơ
Nguyên Nhi Nguyễn Văn Nhiều
thuộc HQ-4
đă
vĩnh viễn bỏ chúng tôi ra đi ngày 18 tháng 10 năm 2013 tại Dallas, Texas
Hưởng thọ 63 tuổi
Toàn thể SQ HSQ và
ĐV Khu-Trục-Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 xin chia buồn
cùng hai cháu
Nguyễn Hoàng Sa, Nguyễn Trường Sa và tang quyến.
Nguyện cầu hương
linh Nguyễn Văn Nhiều sớm về nơi thiên đường hằng mong ước.
Tiễn Nguyên Nhi
(1950 – 2013)
cánh hải âu
giờ bỏ đàn
hẹn mù khơi
sóng thênh thang theo cùng
chào Hải Đăng (*)
mộng trùng phùng
chung khêu bếp lửa
quạt hừng thiên thu
Vũ Hoàng Thư
Nhận được tin buồn nhà văn, bạn thiết của Văn
Nghệ Biển Khơi, Anh Nguyên Nhi Nguyễn Văn Nhiều, cựu
Sĩ Quan Hải Quân VNCH, Khóa OCS-10, đă vĩnh viễn ra
đi. Nguyện cầu Linh Hồn Michel sớm về chốn Thiên
Đàng nghỉ ngơi đời đời trong ṿng tay Chúa.
Vô cùng thương tiếc,
BBT Văn Nghệ Biển Khơi & Văn Hữu
---------------------------
(*) Nguyên Nhi vẫn thường gọi vợ
của anh, nhà văn Phạm Chi
Lan (mất năm 2009), là Hải Đăng.
Buồn khi nghe tin người bạn chưa quen nhưng biết
qua thơ, văn của bạn trên BK. Vợ đă mất từ năm
2009 và bây giờ đến phiên bạn. Điều ǵ đă làm
bạn ra đi vĩnh viễn? Nhờ bác Tuấn chuyễn lời
chia buồn và đồng cảm của ḿnh với gia đ́nh
người bạn Nguyên Nhi.
Hà Phú Đức
Nghĩ hoài về một ngọn hải đăng
“Đêm khơi. Nhật nguyệt vỡ.
Tôi hụt hơi trong biển cuồng.
Tôi chới với trên sóng bủa …
Tôi vốn nghĩ hoài về một ngọn hải đăng.
Thầm lặng của riêng ḿnh.
Vẫn thương em như thương tiền kiếp.
Vẫn nhớ em như nhớ căn phần.
Đâu đó một góc trời, tôi biết, có em khắc khoải
đợi chờ, mà mệnh tàu tôi lẽ đâu hoài biệt xứ?"
Đêm khơi. Nhật nguyệt ngộ.
Tôi chấp chới trên biển đời hoan lạc…
Tôi dấu yêu chùm sáng diệu kỳ. Em. Trong cuộc bể
dâu này tôi có thể ném tung hê tất cả.
Cần ǵ đâu ngoài ṿm sáng t́nh em?
Nhưng, xét cho cùng, ai chẳng có cho riêng ḿnh
một ngọn hải đăng?
Hăy cứ đi t́m. Quanh đời băo lộng… “ (Nguyên
Nhi)
Anh đă t́m thấy, đă đến. Trùng phùng.
C̣n lại nơi đây những người tiếc thương anh, vô
cùng…
Xin gởi lời thành kính phân ưu đến gia đ́nh anh
Nguyên Nhi.
Phan Thái Yên
Thành thật chia buồn cùng tang quyến.
THƯƠNG TIẾC
khơi xa sóng lặng sương mù
hải đăng thao thức, mạnh thu bàng hoàng
mây nào trôi lạc tầng không
vào nơi vô trụ phiêu bồng riêng ai
Tử Hà . nbt
Thành kính phân ưu cùng gia đ́nh OCS . Tất cả
văn hữu của Văn nghệ Biển khơi từ đây măi măi
không c̣n trông thấy bút danh Nguyên Nhi hiện
diện cùng với những trăn trở của người lính
biển vẫn " mơ hồ trông thấy những chiến hạm ra
khơi ".
" Nơi đây , ừ nơi đây
Người đến để chia tay
Người quen cùng kẻ lạ
Hội ngộ nhau chốn này .. "
Đây là lời thơ của một thiền sư người Nhật đứng
ở sân ga nh́n kẻ đến người đi một cách vội vàng
. Đời là hợp rồi tan , đến để rồi đi .
" Nguyên Nhi đến với Biển Khơi và chia
tay là lẽ vô thường "
Chào Nguyên Nhi .
Cỏ Biển
Tiễn Nguyên Nhi
biển sóng động
tràng hoa trôi
tiễn người đi
giữa mù khơi
nghẹn ngào
cuộc t́nh thơ
như trăng sao
dắt nhau về
cỏi chiêm bao
mịt mùng
Đường Du Hào |
|
Nguyên Nhi và vợ anh, nhà văn Phạm
Chi Lan, mất năm 2009,tức Hải Đăng -cánh hải âu
Trái: Nguyên
Nhi, nhớ bởi Đinh Trường Chinh
Phải:Nguyên
Nhi và Phạm Chi Lan, ảnh Hoàng Đ́nh B́nh
Con chim chết giữa khóm hồng vô cớ
Tiếng hót quên thảng thốt rụng hiên ngoài
( Nguyên Nhi )
NGUYÊN NHI: GIÓ CHƯỚNG VÀ NGỌN HẢI ĐĂNG
Nguyễn
Vy-Khanh
Quái Phong!
Gió chướng nổi lên giữa không gian tịnh yên của văn chương hải ngoại. Gió
chướng, nhà thơ như lạc lơng giữa cuộc đời, một hoài t́m kiếm. Và ngọn hải
đăng đứng ở cuối chân trời. Bên bờ biển vắng. "Đêm khơi. Nhật nguyệt vỡ. Tôi
hụt hơi trong biển cuồng. Tôi chới với trên sóng bủa (... ) Tôi vốn nghĩ
hoài về một ngọn hải đăng. Thầm lặng của riêng ḿnh. Vẫn thương em như
thương tiền kiếp. Vẫn nhớ em như nhớ căn phần. Đâu đó một góc trời, tôi biết,
có em khắc khoải đợi chờ, mà mệnh tàu tôi lẽ đâu hoài biệt xứ?"
TÔI GỌI NGUYÊN
NHI.
( Nguyên Nhi
và vợ Phạm Chi Lan là tác gỉa quen thuộc của báo Trẻ Dallas và Văn Học Nghệ
Thuật Liên Mạng))
Nguyên Nhi !
Tôi gọi tên
anh một người chiến sĩ,
Hải Quân
trung uư,
Quân lực Việt
Nam Cộng Ḥa.
Anh từng tham
gia trận hải chiến Hoàng Sa.
Người lính
biển yêu biển
Anh đặt tên
hai con trai là Hoàng Sa và Trường Sa.
Bao nhiêu năm
qua,
Hai đứa con
bên anh,
Như biển đảo
ấy vẫn bên anh.
Nhưng hôm nay,
Người chiến sĩ
hải quân,
Chuyến hải
hành cuối đời đă đưa anh biền biệt xa khơi..
Đảo Hoàng Sa,
Trường Sa ơi…
Có nhớ người
lính năm xưa,
Đă đối diện
quân thù,
Bảo vệ biển
quê hương,
Th́ sóng hăy
để tang,
Hăy tung lên
triệu triệu giọt sóng buồn.
Nguyên Nhi !
Tôi gọi tên
anh một người viết văn và làm thơ,
18 tháng Mười
năm 2013 anh đă ra đi,
Không phải một
ngày do anh chọn lựa,
Mùa Thu thơ
mộng hiểu tâm hồn thi sĩ,
Nên anh qua
đời vào mùa Thu.
Anh Nguyên Nhi
ơi,
Gía mà tôi
biết uống rượu,
Giống như anh,
Th́ sẽ uống
tiễn anh ly rượu cuối cùng,
Để chung những
vui buồn,
Một kiếp nhân
sinh.
Như đôi lần
anh và tôi cùng chia sẻ.
Nguyên Nhi !
H́nh ảnh người
làm thơ dáng gầy c̣n đó,
Người viết
những câu văn đẹp như thơ,
Nhưng anh đă
bỏ hẹn ḥ,
Với thơ văn,
với người thân, bạn bè…
Đi chẳng trở
về,
Anh chẳng trở
về.
Vĩnh biệt anh
!
Có mùa Thu lá
vàng rơi,
Vĩnh biệt anh
!
Có tôi ngậm
ngùi .
Nguyễn
Thị Thanh Dương.
( Oct.
20 – 2013 )
Nguyên Nhi ra
đi
Xưa
cầm súng giữ b́nh an quê mẹ
Cố ngăn rào chống đuổi giặc ngoại xâm
Cố ra khơi. lánh xa loài quỷ đỏ
Nay sức cạn hơi tàn. anh bỏ hết. mà đi.
VTTG Lúa 9
Nguyên Nhi đă rong chơi cơi khác
Saturday, 23 November 2013 16:55
Nguyên Nhi trong một buổi
phát thanh hàng tuần của Tạp Chí Đời Sống Văn
Hóa Nghệ Thuật Truyền Thanh
Nguyên Nhi
đă đi rong chơi cơi khác. Tôi nghĩ như thế.
Ian Bùi trong một bài thơ viết tiễn Nguyên
Nhi cũng nói: Sống như chơi, chết cũng như
chơi. Nh́n lại thời gian hơn tháng vừa qua,
Nguyên Nhi nằm bệnh trông thật buồn bă, cô
đơn. Nguyễn tôi và Hoàng Định Nam hai lần
tới thăm (một lần tại nhà hốc rừng - forest
cove, từ của Phạm Chi Lan- một lần ở bệnh
viện Baylor Garland), Nguyên Nhi cũng chỉ có
một ḿnh, yếu tới không nhấc tay lên nổi.
Cái chết đến thật mau sau đó, xem như một
giải thoát đối với bạn ta. Bởi v́ cơi trần
này với Nguyên Nhi coi như không c̣n vui
được nữa. Thôi th́ rong chơi cơi khác vậy.
...Nguyễn với Nguyên Nhi và
Phạm Chi Lan quen thân nhau qua mối t́nh văn
chương chữ nghĩa. Họp Quạ, ngồi quán cà phê,
sinh hoạt ở nhà Lan…Từ đó có buổi phát thanh
hàng tuần Tạp Chí Đời Sống Văn Hóa Nghệ
Thuật Truyền Thanh trên đài của Thái Hóa Lộc
với Phạm Chi Lan, Nguyên Nhi, Đinh Yên Thảo,
Tôn Thất Phương, Diễm Tú, Quỳnh Như và
Nguyễn tôi. Trong đó, Nguyên Nhi là giọng
chính, bạn có giọng đọc rất hay, nhất là đọc
thơ. Ôi, những ngày xưa thân ái ấy làm sao
quên. Tiếp đến là thời gian sinh hoạt với
báo Trẻ, qua những buổi Ra Mắt Sách,
Festival Văn Học Nghệ Thuật, những cuộc bày
tranh, hát nhạc Nguyễn Đ́nh Toàn, Hội Ngộ
Văn Học, Đêm Đọc Thơ & Hát Thơ. Nguyên Nhi
đă cùng anh em tham dự rất nhiệt t́nh.
Thời gian trôi qua. Khóm trúc đào vẫn nở bên
hiên nhà. Con chim màu đỏ mỗi buổi sáng vẫn
tới gơ cửa. Nhưng hỡi ơi, Nguyên Nhi đă ra
đi, bỏ lại anh em dưới trời này. Tiễn bạn,
tôi xin mượn lời và những h́nh ảnh trong thơ
Tagore: Bạn đă đến lễ hội trần gian này với
tiếng cười tiếng khóc, bạn đă được nếm mật
hoa của cuộc sống và cả chén đắng trần gian.
Giờ đây bạn hăy vui vẻ ra đi gặp lại Phạm
Chi Lan nơi miền lặng ấy
Tim Nguyễn
Thấy mơ hồ một chiến hạm ra khơi
Nguyên Nhi
Tạp bút -
February 19, 2008
Đối với anh ta, con tàu không chỉ đơn thuần là một khí cụ chiến tranh. Nó là
một sinh thể có đời sống và mảnh hồn riêng. Cái hồn rất riêng này không dễ
nào nắm bắt. Con tàu, tuổi trẻ anh ta ở đó. Con tàu, khoảng đời tuoi đẹp
nhất của anh ta ở đó. Con tàu, ở đó, chứ không phải là bất cứ một nơi nào
khác.
Trong đem mịt mùng băo biển, anh ta đốt lên một đóm thuốc nhỏ nhoi. Chung
quanh anh ta là những gương mặt lầm ĺ chai sóng. Mặt hải đồ chi chít những
tọa độ trên một hải tŕnh ngoằn ngoèo truy tàu địch. Mùa biển động là mùa
tàu giặc lén lút xâm nhập. Chúng gọi đó là chiến tranh du kích trên biển.
Sóng lớp lớp phủ chụp mặt sàn chính con tàu, chồm lên cả đài chỉ huy. Con
tàu thủy chung vẫn lừ lừ chẻ mặt biển đen. Lâu, phải thật lâu mới có một ánh
đen xa nhấp nháy. Mua gào. Gió rít. Nguời ta không thể nào quên đuợc những
con gió xé tai của một ngày băo biển. Con tàu, con nguời gắn bó thủy chung,
xẻ chia định mệnh. Định mệnh ấy xua đuổi cả hai vào cuộc chiến tranh để sinh
tồn trước một thiên nhiên khắc nghiệt và một chủ nghia hắc ám.
Sau khi bàn giao phiên hải hành sớm, anh ta rời đai chỉ huy. Những thủy thủ
cùng phiên với anh ta cung lục tục về pḥng ngủ. Anh ta không vội. Duờng nhu
trên đời không có điều ǵ làm anh ta phải hấp tấp. Anh ta c̣n quá trẻ và
dường như mọi việc đều chiều chuộng, chờ đợi anh ta. Dường như chưa
có cơ hội
tốt nào bỏ đi v́ sự chậm chạp của anh ta. Nói đúng ra cũng có một ngoại lệ,
có một lần anh ta đă rất vội vàng. Đó là lần anh ta quyết định vào lính. Anh
ta đă nghi rằng chuyện học hành, đỗ đạt, t́nh yêu, hôn nhân, mọi sự… đều có
thể thư thả thu xếp. Nhưng cuộc chiến cần có anh ta. Tức th́. Như bị một hấp
lực không thể cuỡng lại đuợc, anh ta rời bỏ giảng đường. Nhiều nguời cố gắng
lư giải, gọi đó là "mộng hải hồ", "nghiệp kiếm cung", "tiếng gọi tổ quốc"…
hay ǵ ǵ đó nữa. Riêng anh ta, anh ta vốn dị ứng với tất cả những danh từ
to lớn.
Nhưng đó là chuyện đă cũ. C̣n bây giờ th́, sau phiên hải hành khuya, chẳng
có ǵ phải vội vàng, anh ta lững thững đi xuống pḥng ăn, nhờ nguời tiếp vụ
pha một tách cà phê. Có thể anh ta sẽ thả người trên sofa, lật lật một vài
trang sách. Cũng có thể anh ta chỉ ngồi thừ ra đó để suy tưởng mênh mông.
Cũng có thể anh ta muốn chứng kiến một ngày mới vừa lên qua những ô cửa kính.
Luồng nắng huy hoàng xoay động mỗi bận mui tàu quay. Trên vách, chung quanh
anh ta là bản sao của những bức tranh vẽ biển, vẽ thuyền, hải đăng, hải âu,
những gành đá cô quạnh... Cũng như anh ta, mặt trời chẳng vội vàng...
Sau mấy giờ nghỉ ngơi lấy sức, anh ta bắt đầu một ngày làm việc mới. Hồi
chua vào lính, anh ta chỉ nghi được rằng đời sống hải quân là những cuộc hải
hành và hải chiến. Không bao giờ anh ta tuởng tuợng ra sự khô khan cứng ngắc
của những buổi họp tham muu, sự buồn nản của việc giấy tờ, công văn. Nhung
rồi cung quen. Con tàu chào đời và lớn lên trong Đệ nhị thế chiến. Ba mưoi
năm sau nó là một trong những người chị trong hạm đội miền Nam. Những chiến
công của nó hăy c̣n đó, đẹp ngời trong hải sử.
Theo hải tŕnh của nó, anh ta
đa ghé qua những bến cảng địa đầu, những hải đảo cuối đất. Theo những cánh
lục b́nh quắt queo và rục ră ngoài cửa biển. Theo cánh trắng hải âu thảng
thốt bổ nhào xuống mặt vịnh xanh lo. Theo bầy sứa sặc sỡ trải rộng một vùng
biển vắng. Theo băi san hô cành nhánh xum xoe. Theo đảo xanh dừa. Theo bờ
trắng cát. Theo tàu giặc ranh ma. Theo đầu con chớp bể mua nguồn. Theo bầy
dolphin trên hải tŕnh quen thuộc...
Chiều xuống chậm trên biển. Khó mà quên đuợc cảnh tuợng lộng lẫy của thời
khắc bàn giao giữa ánh sáng và bóng tối. Mặt trời nằm vắt ngang đuờng chân
trời, rực đỏ. Anh ta hay ngồi ở sân sau, thả khói, nh́n mặt trời ch́m. Anh
ta không nhớ nhà. Nhớ chăng chỉ là chút h́nh ảnh mênh mông suong khói. Con
tàu là ngôi nhà của anh ta. Đó là noi anh ta đă trải qua những ngày êm đềm
và sóng gió. Cay đắng và ngọt ngào. Con tàu đă là một phần của tâm hồn mẫn
cảm của anh ta. Có thể trong suốt một chặng dài muời, hai muoi năm, chuyện
đời anh ta không có ǵ đáng nhớ nhung cái khoảnh khắc sống với con tàu ấy đă
trở thành một dấu ấn đậm nét trên tâm hồn anh ta. Với con tàu, anh ta truởng
thành và tâm hồn anh ta xếp thành nếp, dáng.
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, con tàu nằm đại kỳ ở hải xuởng. Con
ḱnh ngu một thời luớt sóng ngăn thù ấy bây giờ đanh ngậm ngùi mắc cạn. Nó
không c̣n co hội vuợt trùng luu vong. Nó, cũng như anh ta, nằm lại, nghẽn
thở trong chiếc tḥng lọng đỏ. Sau này, anh ta viết:
Để khắc khoải đem sâu tù cải tạo
Nghe thinh không thảng thốt một hồi c̣i...
oOo
Một tối, trong trại tù cải tạo ấy, anh ta lật tờ "Quân đội nhân dân" và bàng
hoàng khi thấy lại h́nh ảnh con tàu trên trang nhất. Bức h́nh này quá quen
thuộc đối với anh ta. Nó đa xuất hiện hằng năm trên quyển niên lịch hải quân.
Th́ ra, vừa đuợc tu bổ xong chiếc khu trục hạm ấy, vẫn c̣n giữ nguyên tên và
số hiệu, trở thành một phuong tiện trấn áp trong tay kẻ thù.
Vậy là thêm một sự mất mát. Anh ta âm thầm chịu đựng sự mất mát ấy bên cạnh
những đổ vỡ khác. Nhung nói chung những tang thuong cuộc đời chỉ có thể làm
anh ta trở nên xót xa cay đắng chứ anh ta không hề nguyền rủa hay đay nghiến
số phận. Bây giờ anh ta đă năm muoi. Con tàu cung vừa độ lục tuần. Bây giờ
anh ta biết ḿnh già. Bây giờ anh ta không biết con tàu đa tàn tạ đến đâu
trong tay kẻ địch. Hay nó đa rỉ sét nằm neo trên một nghia trang quạnh quẽ
nào rồi?
Nhưng bây giờ nghĩ cũng kỳ, thỉnh thoảng anh ta lại thấy chính ḿnh vừa độ
thanh niên. Mắt sáng. Tóc bồng. Bây giờ, cũng kỳ, thỉnh thoảng anh ta lại
thấy con tàu đương thời thiếu nữ. Ngực nở. Môi tuoi. Anh ta thấy ḿnh đang
trụ đầu pháo tháp, vỗ mạn tàu mà ca. Anh ta lại nghe lại một hồi c̣i u u
trầm mặc. Tiếng c̣i tàu mở đầu một ra khơi đồng thiếp. Anh ta viết tiếp:
Để khật khuỡng chiều say trên xứ lạ
Thấy mơ hồ một chiến hạm ra khơi...
Nguyên Nh
Bài
ca Dolphin
Nguyên
Nhi
Về
thôi, em
Bầy dolphin đă từ giă biển trăng...
Ông
trật tự. Ngăn nắp. Và đúng giờ một cách đáng ghét! Tất cả dây chăo
dây thừng phải nằm gọn trong hộc. Hải pháo phải được che chắn cẩn
thận. Ngừa nước mặn. Vật dụng trên boong phải được ràng rịt chu đáo.
Pḥng biển động. Sau cùng, tất cả mọi người phải chờ ông.
Ông
thường có mặt trên pḥng lái. Ngay cả những lúc ông không có việc ǵ
để làm ở đó. Điều này khiến anh phiền ḷng: dưới quyền ông là những
sĩ quan trẻ tự trọng, có tinh thần trách nhiệm và thông thạo hải
nghiệp. Ông là điển h́nh của một vị thuyền trưởng thời trung cổ:
Trên là Thượng đế, Dưới là Ta.
Ông
lầm ĺ. Đấy là cá tính của ông, không ai bận tâm. Thậm chí nó c̣n
tốt đối với thuộc cấp. Ông nói ngắn gọn, không thích thảo luận. Anh
không mấy thiện cảm với ông, Trong ư nghĩ anh, ông lập dị và không
b́nh thường. Nếu giọng ông có chút nồng ấm nào đó là khi nói về Anna
và Kita.
“Chúng
nhắc tôi một bài ca cổ xưa của những người đi biển. Mười năm đi về
qua cửa biển này tôi không bao giờ thiếu chúng. Đó là hai người bạn
mà mẹ biển đă trao tôi. Chúng là một sự thúc gọi lên đường.
Hăy
ra khơi
Ra khơi
Chàng thủy thủ
Gió đă lên...
Lần ra
biển nào cũng vậy, ở ngấn nước, nơi phù sa lờ lợ tiếp giáp với mặt
xanh mênh mông, ông căng mắt chờ đợi. Không lâu, hai vệt nước trắng
bạc song song lao nhanh về phía lái tàu. Rồi chúng tẻ làm hai, mỗi
con vật lượn sát một bên thành tàu. Đến ngang vị trí hai chiếc neo
mũi, chúng chợt phóng vọt lên không, lượn ṿng, phơi chiếc lưng đen
loáng và những chiếc vây óng ánh bạc rồi thả ḿnh rơi ṭm xuống mặt
nước xanh lơ. Mặt ông rạng rỡ. Ông vẫy vẫy tay. Lại lên tiếp những
màn nhào lộn cho đến khi con tàu tiến sâu vào vùng nước màu xanh lục.
“Đi thôi... Anna... Kita!” Rồi ông chậm răi trở về buồng ngủ nối với
pḥng lái bằng một hành lang dài.
Hăy
ném những chiếc vỏ ốc sặc sỡ lại bờ cát
Ra khơi, hỡi chàng thủy thủ
Ra khơi
Có lẽ,
nhiều khi anh nghĩ, mối thần cảm giữa ông và giống dolphin đă phát
khởi từ xưa lắm. Năm mươi triệu năm trước. Khi tổ tiên những người
anh em của ông c̣n ngụ cư trên mặt đất nóng bỏng này. Biển gầm gừ
đe dọa. Biển êm ái vỗ về. Trong tiếng gió cổ sơ có lời thầm réo gọi.
Để một sớm mai nào đó, tổ tiên giống ấy theo ngọn sóng kỳ bí lên
đường.
...
Hăy ra khơi
Ra
khơi Về Nơi cuối ngọn gió
Mặt đất
Biển cả
Bầu trời
Một...
Lần ấy
anh và ông ngồi trên một thành san hô cheo leo. Bài ca chơi vơi đứt
quăng theo từng ngọn sóng trào. Dưới chân, băi cát vàng xoải đến tận
mơm bên kia ḥn móng ngựa, nơi những người khai đảo t́nh cờ bới lên
được những ống xương người bên sợi xích sắt. Trên đầu anh là ngọn
hải đăng trầm mặc. Anh bất ngờ nhận ra ông là chàng thủy thủ của
thời đại người ta không biết bên kia biển có ǵ. Một tên cướp biển!
Một nhà thơ! Bởi trong mỗi nhà thơ có bẩm chất ngang tàng của một
tên cướp biển.
...
Hăy ra khơi
Này, ta báo trước
Ngươi sẽ được tất cả
Ngươi sẽ mất hết...
Giọng
ông đục sệt. Giọng ca man rợ của lăo pháp sư trước khi ném nàng
trinh nữ xuống ghềnh tế biển. Ông uống rượu với chai. Ông uống trong
một tư thế kỳ cục. Ông rải một tia rượu lên mặt sóng ngầu bọt rồi
ngửa cổ tu. “Tôi không uống với người. Tôi uống cùng biển.” Dường
như vũ trụ mới tượng h́nh. Dường như những dăy thiên hà vừa tượng
h́nh. Dường như biển mới tượng h́nh. Dường như thần biển mới vừa
vung tay chẻ lục địa thành những sông ng̣i, eo lạch. Trăng rải ma
quái trên làn nước lăn tăn trong vịnh. Lúc ấy anh bàng hoàng, hối
hận đă lên đảo một ḿnh với ông. Một tên cướp biển. Một kẻ làm thơ
điên say giữa trời biển sơ khai. Kẻ ném một nhánh cây khô xuống nước
và mang giấc mơ chinh phục đại dương.
...
Hăy ra khơi
Sóng gió không thể nào vùi dập được ngươi
Băo tố không thể nào hủy diệt được ngươi
Ngươi sẽ đến nơi những cơn gió dừng lại...
“Lạ
lùng một điều là h́nh như các cậu, và có lẽ cả loài người phù phiếm
này, dửng dưng với biển. Tôi sống với từng nhịp mạch biển khơi. Tôi
cảm động v́ sự dịu dàng và sảng khoái v́ sự bạo tàn của biển. Tôi
luôn bị ám ảnh về một cái chết già nua. Tại sao các cậu lái tàu theo
hướng ánh trăng? Các cậu sẽ về đâu? Cái đẹp sẽ đưa các cậu tới đâu
nhỉ?” Anh tưởng như ông vừa bước ra từ một đuôi sao chổi.
Ra
khơi
Dù ngươi không thể nào hiểu biển
Không ai có thể khám phá hết điều diệu kỳ của biển cả...
Ra khơi...
Nhưng
chỉ lần ấy rồi thôi. Trên boong tàu, ông trở lại là viên hạm trưởng
trật tự, ngăn nắp. Chi li và đúng giờ một cách đáng ghét! Không được
có một vết dầu trên sàn tàu. Tay lái, hải bàn và những chiếc đồng hồ
lỉnh kỉnh phải bóng loáng. Ông vẫn cáu kỉnh những lúc viên sĩ quan
tân đáo móc nhầm mũ vào chiếc móc dành riêng cho hạm trưởng.
Ra
khơi
Ra khơi...
Hăy đến nơi những cơn gió dừng lại
Đó là
năm đầu tiên của anh trên chiến hạm viễn dương này. Tháng tư và
những cơn mưa loáng vội qua cửa biển. Cuối tháng tư, mùa đông cực
Nam đă cận, Anna và Kita bận rộn trong những ngày hội lớn. Từng đám
mây cá ṃi khổng lồ di chuyển ngang vùng biển này, t́m nơi ấm áp.
Hàng triệu triệu sinh linh bé bỏng là đại yến của bầy dolphin b́nh
thường hiền lành ngây thơ. Bầy hải âu cũng sà xuống phô diễn vũ điệu
tử thần. Trong tiếng gió và tiếng sóng xô đập nhau, bầy dolphin huưt
gió the thé. Không biết bằng cách nào ông nhận ra Anna và Kita cũng
như không hiểu nhờ đâu chúng nhận ra ông. “Đi thôi... Anna...
Kita... “
Nơi
những cơn gió dừng lại
Bên kia biển
Ngươi dừng lại
Câu
chuyện hôm ấy với ông làm những giấc mơ của anh trở nên kinh hoàng.
Và những ư nghĩ anh thành lộn xộn. Anh nhầm lẫn giữa khuôn thước và
sự nổi loạn, giữa văn minh và man rợ. Anh không hiểu sự khôn ngoan
can dự chi đến sự bạo tàn. Và trên hết, anh đâm nghi ngờ cái đẹp.
Anh không c̣n thích đọc cổ thi lẫn những bài thơ hiện đại. Trong anh,
bài thơ tuyệt mỹ là tiếng huưt gió của bầy dolphin, một sớm mai nào
theo tiếng gọi thần bí, từ bỏ đất liền, lao ḿnh xuống mặt đại dương
khốc liệt.
Bên
kia cơn băo
Mặt đất
Biển cả
Bầu trời
Là một
B́nh an
oOo
Cuối
tháng tư năm ấy, mùa cá ṃi đến sớm. Mùa bận rộn nơi cửa biển này.
Biển máu. Như hàng năm, những cụm mây xanh xám khổng lồ cá ṃi tránh
mùa đông miền cực Nam kéo ngang. Mùa đại yến của bầy dolphin. Nhưng
những đoàn tàu đánh cá không hăm hở ra khơi cho mùa cá mới. Cảnh
hoảng loạn của bầy cá ṃi trong ḷng biển. Và cảnh nhốn nháo của con
người trên mặt biển.
Ông
vẫn trên đài chỉ huy như thường lệ. Dù không chuyện chi để ông làm.
Một chuyến ra khơi hối hả lạ lùng. Dây chăo nằm bừa bộn trên boong.
Những khẩu hải pháo không cần được che chắn ngăn ngừa nước mặn. Đi!
Đi! Và chưa biết về đâu.
Khi
c̣n tàu vừa bỏ lại phía sau những cánh rừng sát cháy trụi, ông bồn
chồn thấy rơ. Nh́n những cánh lục b́nh khô bẹp mà con sông đổ ra
biển cả, ông buồn rầu nhồi thuốc vào tẩu luôn tục. “Có lẽ ta sẽ
không bao giờ trở về vùng biển này nữa đâu.” Mắt ông bỗng rạng rỡ.
Từ xa hai vệt nước trắng bạc song song lao nhanh về phía lái tàu.
Rồi chúng tẻ làm hai, mỗi con vật lượn sát bên một thành tàu. Đến
ngang vị trí hai chiếc neo mũi, chúng chợt quẫy đuôi vọt qua đầu
ngọn sóng, phơi chiếc lưng đen loáng và những chiếc vây óng ánh bạc
rồi thả ḿnh rơi ṭm xuống mặt nước xanh lơ. Ông vẫy vẫy tay.
Hăy
ra khơi
Hăy thanh tẩy tâm hồn
Ra đi
Như không có chốn quay về...
oOo
Thỉnh
thoảng anh mới gặp ông trong căn nhà một pḥng cuối phố. “Tôi không
c̣n bị ám ảnh về cái chết già nua. Người thủy thủ không bao giờ già.
Chừng nào anh ta vẫn c̣n hăm hở muốn ra khơi.” Nh́n ông, lạ lùng,
một thời thanh xuân sống lại, diễn hiện quanh đây. Những con hải âu
bay vút giữa tầng không, thả xuống mặt sóng vạn niên tiếng kêu lạnh
rợn. Những đảo san hô xanh rợp bóng dừa. Bầy dolphin đùa giỡn suốt
một vùng biển trăng. “Rất nhiều đêm, nửa khuya tôi giật ḿnh chợt
thức. Có tiếng rơi khẽ khàng của sợi dây thừng cột tàu trên mặt sông
mù sương sớm. H́nh như có tiếng c̣i rúc của một con tàu vừa rời bến
cảng. Tôi ngửi được mùi muối mặn trùng khơi. Tôi nghe rơ ràng tiếng
huưt gió của bầy dolphin. Con Katia và Anna. Tôi nghe tiếng hú của
gió muôn phương không biết đến từ đâu và dừng lại nơi nào... “
Ra
khơi
Chẳng phải ngươi đă ra khơi
Một sớm mai lọt ḷng
Ra khơi
Đi...
Về...
Người
ta phá cửa pḥng ông. Khi người phụ nữ nấu cơm tháng báo đă ba ngày
ông không mó tới phần cơm mà bà vẫn đặt ở bệ cửa mỗi chiều.
Hăy
ra khơi, chàng thủy thủ
Ra khơi
Tiếc chi chốn đă rời
Sá chi nơi sẽ đến
Anh có
đến giă biệt ông. Hai bên chiếc quan tài xám người ta đính vào hai
con dolphin vừa tung ḿnh vọt qua đầu ngọn sóng. Katia và Anna.
Ra
khơi
Sóng trôi về đâu...
oOo
Bài ca
ấy lăng đăng trong những giấc mơ anh. Mà anh có nhiều giấc mơ kỳ cục
lắm. Trong một giấc mơ, anh thấy vị thuyền trưởng ấy bước lừng lững
xuống mé nước. Hai chân ông liền lại, biến thành chiếc đuôi cá dịu
nhuyễn. Hai cánh tay ông teo tóp dần, biến thành hai cái vi nhỏ xíu
. Ông cất tiếng huưt gió gọi đàn. Rồi ông lẫn lộn đâu đó giữa bầy
dolphin đang tưng bừng giỡn trăng. Rồi tất cả bỗng trở nên im lặng
vô cùng.
Và dạo
này anh cũng thường giật ḿnh tỉnh giấc giữa đêm. Phân vân, anh tự
hỏi, có phải bài thơ đẹp nhất là tiếng huưt gió của bầy dolphin trên
biển vắng.
Về
thôi, em
Bầy dolphin đă từ giă biển trăng...
Nguyên
Nhi |
Năm ấy ông ngoài năm mươi.
Tôi mới vừa mười tuổi.Tôi hay gặp ông vào những chiều nghỉ học, sau khi
đă đảo khắp xóm để bán cho hết nồi khoai luộc hay chuối nấu. Trên chiếc
mâm nhôm tôi đội trên đầu, má tôi đă chia sẵn khoai ra từng khúm.
Mỗi khúm năm cắc! Chuối th́ đếm trái. Hai trái một đồng. Tôi lưu ư ông
về sự hiện diện của ḿnh bằng một chiếc bóng đen gầy, đầu húi cua, áo sơ
mi ngắn tay và chiếc quần đùi rộng thùng th́nh. Cái bóng dị dạng dài
ngoằng ngả lấp một khoảng sân nắng trước mặt ông. Bao giờ câu hỏi đầu
tiên cũng là: "Sao, khá không con?" và thường th́ chỉ có một câu trả lời
"Thưa được được, ông à!" Ông vẫn không rời tay khỏi pho tượng đang đắp
dở, đôi ánh mắt sắc sảo mà hiền từ ngời lên một vẻ thành khẩn trang
nghiêm. Chiếc bay thợ hồ nhỏ xíu chăm chút tô từng mảng xi măng xám lên
những manh lưới thép cuộn ṿng. Thỉnh thoảng ông ngừng lại một chút,
nghiêng nghiêng mái tóc hoa râm như đang chiêm ngưỡng một công tŕnh vĩ
đại.
Tôi ái mộ ông già hết mức!
Chung quanh ông là một rừng tượng. Tượng Phật Thích Ca.Tượng Phật Di Lặc.
Tượng Đồng tử bái Quan Âm. Tượng La Hán. Tượng Ông Thiện Ông Ác... Có
pho chưa hoàn thành. Có pho đă sơn son thếp vàng, chờ người đến thỉnh.
"Vậy ông bán có được nhiều tiền không?" Một lần nọ tôi hỏi.
"Ông không bán", ông lắc đầu nhe "Tiền của khách thập phương hay chùa
bạn đến thỉnh ḿnh chúng cho chùa. Chùa mua cơm gạo, thức ăn, vật liệu.
Như ông làm công quả vậy mà!"
"Rồi làm sao ông giúp đỡ gia đ́nh?"
"Ông không c̣n gia đ́nh!"
Hồi đó tôi ngạc nhiên dữ lắm. Tôi chưa thể tưởng tượng được chuyện một
người lại có thể mất hết cả gia đ́nh, hàng họ, người thân.
"Vậy ông không buồn sao?"
Tôi sực nhớ những chiều đi học về không thấy má tôi trong căn nhà lá ọp
ẹp v́ một phiên chợ ế.
"Không! Ḷng ông thanh tịnh", giọng ông đều đều.
"Ha Sao vậy ông? Nghĩa lạ sao?" Tôi hỏi nữa.
"À, ḷng ông nhẹ nhàng, thanh thản." Ông già bỗng trầm ngâm một chút..."Cực
Lạc đâu ở đâu xạ Cực Lạc ở ngay trong những ǵ ḿnh nghĩ, những điều
ḿnh làm."
Ông càng nói tôi càng mù mịt. Nhất là lúc ông bàn về "lục dục thất t́nh"
rồi "sắc sắc không không". Tôi lơ đăng dơi mắt về phía đôi chim sẻ đang
loay hoay bên chiếc tổ nhỏ dưới nóc chùa. Buổi chiều xuống rất chậm và
tôi nghe tiếng ve muộn màng trên những hàng dương. Khi bóng tối trùm
xuống hậu liêu, ông mới lặng lẽ thu gom vật dụng, và tôi cặp nách chiếc
mâm thau lững thững ra về.
Có những biến cố chánh trị làm bẵng một dạo tôi không gặp ông. Chùa bị
vây bọc bởi những ṿng thép gai và tôi thấy lảng vảng ở góc phố bên kia
mấy thanh niên mang kính đen. Mọi người xầm x́ đó là mấy "ông mật vụ".
Đến khi đảo chính xong, tôi mới vui mừng được đến thăm ông. Vẫn là câu
hỏi "Sao, khá không con?"
Tôi lớn khôn dần và cơn lốc thời thế đă cuốn hút tôi vào cuộc chiến
tranh tàn khốc. Trong những lần về phép hiếm hoi, tôi vẫn đến thăm ông.
Tôi đă có thể ngồi uống với ông một tách trà thơm và bàn với ông đôi
điều thế sự. Câu hỏi mở đầu lúc bấy giờ cũng khác trước.
"Con có khỏe không? Tâm hồn con có được b́nh an?"
"Thưa ông, con đang kiếm t́m sự b́nh tâm ấy. Con đă phạm lắm lỗi lầm.
Điều đó cứ làm con hoài hoài bứt rứt."
"Ông hiểu! Nhưng phải biết tự tha thứ cho ḿnh con ạ! Tha thứ cho người
khác bao giờ cũng dễ. Cái khó là tha thứ cho chính ḿnh."
"Con nhớ lời ông."
Ông lại đưa tôi bay chấp chới vào những ṿm tư tưởng lạ. Đầu óc tôi cùn
mằn, những điều lập lại sau hăm mấy năm e có phần sai lạc. Mà dù có nhớ
đúng đi chăng nữa, những tư tưởng ấy cho đến cuối đời tôi vẫn là một thứ
mê cung kỳ bí. "Chính những lời nói im lặng nhất mới mang lại băo giông",
có khi ông lẩm bẩm một ḿnh. "Chính những tư tưởng hiện lên trên bước
chân chim bồ câu mới thống trị thế giới."
Những lần về phép như vậy tôi và ông hay ngồi trong bóng tối chạng vạng
nh́n hàng dương âm thầm trút những chiếc lá kim. Tiếng chuông công phu
chiều át hẳn tiếng động cơ xe cách xa vài con phố. Ánh sáng nhá nhem c̣n
đọng lại trên vai nhũng pho tượng trầm mặc, uy nghi.
"Khi uống một tách trà xanh, tôi đă t́m thấy được ḥa b́nh!" Ông hay
nhắc lại lời một thiền sư Nhật Bản.
Bên ông, tôi quên hết những hệ lụy cuộc đời. Mọi phiền năo chỉ có được ở
những nơi nào đó, rất xa, bên kia chiếc cổng tam quan. Chiến tranh như
chỉ xuất hiện trên những bản tin đài phát thanh, báo chí. Xa lắm, rất xa.
Nhưng không...
Một ngày tháng năm khi tôi trở về với trái tim đầy thương tích th́ mái
chùa xưa cũng không c̣n nguyên vẹn. Những tượng Phật đă bị đập vỡ tan
tành. Chiếc đại hồng chung đă mất dấu Và ông già đắp tượng đă biền biệt
phương nào. Tôi nghe người ta kể lại buổi họp kiểm thảo ở chánh điện hôm
tiếp quản ấy.
"Tôn giáo là nọc độc của chủ nghĩa tư bản!" Giọng tên cán bộ chủ tŕ
buổi họp hùng hồn. "Tôn giáo chỉ có một mục đích ru ngủ, làm tê liệt ư
chí đề kháng của quần chúng. Mọi người phải thành thật khai báo và tự
phê b́nh nghiêm túc những đóng góp cá nhân ḿnh vào việc chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân".
"Không, tôi chỉ là người đắp tượng", ông già tội nghiệp cúi đầu. "Tôi
chỉ cầu sự an vui thanh thản trong tâm hồn"...
Ông già bị đưa đi cải tạo v́ đă phổ biến "văn hóa phẩm độc hại" và "ngoan
cố không thành khẩn tự phê". Mấy hôm sau bọn tôi cũng được lùa vào trại
tập trung để "học tập chính sách mới".
Sau mấy năm ở trại trở về, ngoài gương mặt dầu dăi nắng mưa và một tâm
hồn đầy ắp tràn thương tật th́ tôi lại trở thành một chú bé ngày xưa;
tóc húi cua xơ xác, chiếc áo sơ mi tay ngắn rách vai và chiếc quần đùi
loang mủ chuối rộng thùng th́nh che không hết đôi chân ốm đói. Nhưng
không c̣n khoảng nắng sân chùa để tôi in bóng. Và h́nh ảnh ông già đắp
tượng năm nao cũng chỉ c̣n một hồi ức đau buồn.
Ngôi chùa cổ kính bây giờ đă biến thành Cung Văn Hóa Thành Phố. Những
buổi chiều thứ năm, thứ bảy bọn trẻ xóm tôi nhảy rào vào xem chương
tŕnh "nhảy múa". Trong chánh điện, những thanh niên thiếu nữ mới lớn
tập nhảy đầm với đôi bàn chân trần và chiếc bụng lép. Có hôm tôi đứng
tần ngần hàng giờ bên cánh cửa gỗ có lộng h́nh những cánh sen non. Bệ
thờ lạnh lẽo trống trơn được bài trí bằng khung h́nh ba vị lănh tụ cách
mạng vô sản thế giới. Những chiếc cột tṛn khắc h́nh rồng loang lở c̣n
cố chống đỡ mái ngói cong đă ngả xám màu rêu.
Mái Tây, giang sơn của ông già đắp tượng, người ta đă che những tấm cót
tre kín đáo để làm pḥng chiếu video.
Người lính, đôi khi dễ khóc! Nhất là những người lính bại trận. Nhiều
lúc tôi đă nguyền rủa ḿnh. Chúng tôi đă bất lực. Những lúc ấy, h́nh ảnh
ông già đắp tượng lại hiện ra:
"Phải biết tự tha thứ cho ḿnh con ạ"...
Rồi tôi được sang Mỹ theo một "Chương tŕnh nhân đạo" của chính phủ Hoa
Kỳ. Chính phủ của đất nước vĩ đại này đă làm một hành động có ư nghĩa để
tự xoa dịu một chút cái gọi là lương tâm c̣n xót lại. Số là trên cùng
một con tàu, thay v́ cùng chúng tôi ra sức chèo chống để vượt qua cơn
băo dữ, họ đă ném chúng tôi xuống biển, rồi nhẹ nhàng thơ thới giong
buồm. Hai mươi năm sau họ trở lại và ném chúng tôi một ít phao
cấp cứu. Tiếc thay, đă có lắm người ṃn mỏi vùi thân trong biển đỏ tự
bao giờ. May mà tôi c̣n đang thoi thóp! Chọn nước Mỹ chỉ là chọn "cái ít
xấu hơn" thôi. Lại nữa: ǵ th́ ǵ phải tồn tại cái đă! Có lẽ chính phủ
và nhóm phản chiến ngày xưa phải cám ơn chúng tôi v́ chúng tôi đă đến
đây để lương tâm họ được phần nào yên ổn.
Đa phần chúng tôi không chống đỡ nổi sự hấp dẫn của vùng đất mới; tiền
bạc và thói hư tật xấu! Lắm kẻ ngưỡng mộ và tôn vinh những thứ cặn cáu
mà xă hội này thải ra. Chiếc áo lót năm đồng làm quà tặng vẫn gây xao
xuyến nhiều hơn một bài thơ t́nh nóng bỏng. Tôi không chút ngạc nhiên
nếu xứ sở này đă và sẽ không bao giờ sản sinh ra được một nhà thơ tầm
vóc như Nguyễn Đ́nh Chiểu, Nguyễn Du, ...
Phần tôi, nếu bên kia biển tôi đă mất một quê hương th́ bên này tôi cũng
mất thêm một gia đ́nh. Từ lâu tôi đă quên hẳn ông già đắp tượng. Cuộc
sống bon chen đă làm tôi quên chăm lo sự thanh thản của tâm hồn. Vâng,
tôi đă thực sự quên ông già đắp tượng. Cũng có nghĩa là tôi sắp mất luôn
tôi.
Cho tới một ngày.
Tôi có một cô bạn. Cô ấy sinh hoạt xă hội sao đó trong một ngôi chùa ở
đây. Gần hai năm không gặp mặt và nghe tiếng, bỗng một hôm cô nhắn tôi
viết cho báo Tết của chùa. Thoạt tiên, tôi có ngần ngừ v́ tài mọn. Quyết
định viết v́ thích viết th́ ít mà quí cô ấy th́ nhiều. Nhưng viết ǵ đây?
Hẳn nhiên bài viết phải có một ít sắc màu tôn giáo, nhưng tâm tôi đă
trót vọng đời, biết làm sao trong khoảnh khắc quay ngoắt được về lẽ đạo?
Bỗng bên tai tôi như vọng lại lời ngân nga trầm buồn một tiếng chuông
xưa! Trong trí tôi bỗng sừng sững uy nghi một ngôi chùa mái đỏ cong vút!
Và ḱa, trước mắt tôi là thong dong tự tại h́nh dáng thân yêu của ông
già đắp tượng ngày nào! Ông đang ân cần ngó xuống đời tôi: "Sao, tâm con
có được phần nào thanh thản? Hăy biết tự tha thứ cho ḿnh, con ạ!"
Tôi biết tôi sẽ không bao giờ quên được ông nữa. Cám ơn cô bạn!
Quê hương tôi giờ đây không c̣n tự do tín ngưỡng. Tu sĩ bị bắt bớ giam
cầm, chùa chiền bị sung công. Người ta đua nhau viết biểu ngữ, vẽ chân
dung và đúc tượng lănh tụ, th́ h́nh ảnh người đắp tượng Phật chỉ c̣n một
hoài niệm mơ hồ. Nếu mỗi năm, Tết đến, mấy vần thơ bất hủ của Vũ Đ́nh
Liên đă gợi lại cho tôi h́nh ảnh ông đồ già và một thời vang bóng th́
năm nay "...Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ."
làm tôi bâng khuâng nhớ lại một người muôn năm cũ: Ông già đắp tượng nơi
mái tây ngôi chùa thời thơ ấu.
Tôi biết ông già không phải là người tinh tường Phật học cao siêu. Ông
chỉ là một người đắp tượng! C̣n tôi, làm sao đầu óc tủn mủn vụn vặt của
tôi có thể lĩnh hội được lẽ đạo nhiệm mầu? Nhưng tôi sẽ cố nhớ và gắng
hiểu lời ông.
Cực Lạc không ở đâu xa. Cực Lạc ở ngay trong những ǵ ḿnh nghĩ, những
điều ḿnh làm. Tôi sẽ học cách tự tha thứ cho ḿnh. Tôi sẽ t́m được cho
ḿnh một tâm hồn an nhiên thanh tịnh.
Tôi sẽ bỏ con dao.
Nhưng biết cái tâm nguyện ấy có đạt thành không, hở cô bạn nhỏ?
Nguyên Nhi
Okla, 18.1.97
Giới Thiệu Sách
Friday, 20 January 2012 02:38
Đọc Nguyên Nhi, độc giả cứ ngỡ như
có hai tác giả tách bạch trong cùng một con người của nhà văn. Một Nguyên
Nhi với những truyện ngắn hệt như những truyện dịch, từ văn phong, ư tưởng
đến nhân vật và không gian câu chuyện. Ở đó, người ta bắt gặp những truy vấn
cùng sự duy lư mang đầy tính triết lư Tây Phương. Thâm trầm và bản lĩnh. Và
lần khác, độc giả lại bắt gặp một Nguyên Nhi với những truyện ngắn hay tùy
bút sâu lắng, man mác.
Bằng những tiếng ḥ hay câu vọng
cổ nghe đến năo ḷng. Bằng một mùa bông điên điển hay những nhánh lục b́nh
trôi tím cả con nước lớn miền Tây. Bằng một mùa mận, c̣n nghe ngát cả một
vùng kư ức. Đọc thật chậm và hồi tưởng về những kỷ niệm trong không gian hay
con người của riêng ḿnh, những xúc cảm được dẫn dắt và tự trào, có thể làm
cay cay đôi mắt người đọc. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quư độc
giả tuyển tập truyện ngắn và tùy bút "Lẽ ra mùa mận" của nhà văn Nguyên Nhi
vừa được Trẻ phát hành. Đây là tác phẩm thứ ba của tác giả với cùng bút hiệu
, sau tập truyện ngắn "Con gái người gác đèn biển" , tập thơ "Quái Phong".
"Lẽ ra..., mùa mận" hiện có
tại toà soạn Trẻ.
Liên lạc:
Trẻ - P.O Box 462432
Hoặc địa chỉ: 3202 N. Shiloh Rd.,Garland, TX 75044
Tel: 972-675-4383
Fax: 972-675-3764
Email:
dallas@trenews.net This e-mail address is
being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it
info@trenews.net This e-mail address is
being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it
NGUYÊN NHI:
GIÓ CHƯỚNG VÀ NGỌN HẢI ĐĂNG
Nguyễn Vy-Khanh
Giới Thiệu Sách
Quái Phong!
Gió chướng nổi lên giữa không gian tịnh yên của văn chương hải ngoại. Gió
chướng, nhà thơ như lạc lơng giữa cuộc đời, một hoài t́m kiếm. Và ngọn hải
đăng đứng ở cuối chân trời. Bên bờ biển vắng. "Đêm khơi. Nhật nguyệt vỡ. Tôi
hụt hơi trong biển cuồng. Tôi chới với trên sóng bủa (... ) Tôi vốn nghĩ
hoài về một ngọn hải đăng. Thầm lặng của riêng ḿnh. Vẫn thương em như
thương tiền kiếp. Vẫn nhớ em như nhớ căn phần. Đâu đó một góc trời, tôi
biết, có em khắc khoải đợi chờ, mà mệnh tàu tôi lẽ đâu hoài biệt xứ?" Kiếm
t́m, chờ đợi, và ông đă gặp yêu dấu, Em! "Đêm khơi. Nhật nguyệt ngộ. Tôi
chấp chới trên biển đời hoan lạc. (...) Tôi dấu yêu chùm sáng diệu kỳ. Em.
Trong cuộc bể dâu này tôi có thể ném tung hê tất cả. Cần ǵ đâu ngoài ṿm
sáng t́nh em? Nhưng, xét cho cùng, ai chẳng có cho riêng ḿnh một ngọn hải
đăng? Hăy cứ đi t́m. Quanh đời băo lộng". Trong Khơi mở đầu hành tŕnh thi
ca, Nguyên Nhi đă viết như vậy! Em, chùm sáng diệu kỳ đă t́m thấy, bên đời
băo lộng mà kiếm t́m đă trở thành số kiếp! Măi. Hoài!
Hăy dơi theo những cơn gió chướng! Gió chướng đă thổi qua quê hương! Băo vũ.
Tàn độc. Oan chướng. Đă bốn ngàn năm:
"Ngọn quái phong thổi suốt bốn ngàn năm
Thổi thông thống nửa ṿng trái đất
Dừng lại đây một chiều thở mệt
Đông phương chớp bạo sấm cuồng..." (tr. 16). Dừng lại đây, đây là Oklahoma,
cũng là Em, nơi tạm dung, quê hương thứ hai. Gió bạo tàn đó đă gây bao thảm
trạng, di phần. Cơn gió ác đă thổi qua bến sông Mỹ Tho, quê hương nhà thơ.
"Phố xám hiu hiu cờ giặc đỏ / Nỉ non vĩ cầm chiều mênh mông" (tr. 11).
Màu ảm đạm, hiu hiu. Ngọn gió chiến tranh trong mây mù vần vũ, rừng U Minh
hay hồn người không tỏ:
"Ai thổi hiu hiu ngọn gió nam non
Ḷn suốt xuân ta U Minh lửa đạn
Hỏa pháo treo đầu nửa đêm tiền trạm
Bờ kia ơi mỏi mắt ngóng đuôi Vàm..." (tr. 50).
Người đuổi bắt người. Tṛ cút bắt chết người trên cạn, dưới sông. Chiến
tranh trong rừng sâu, trên ngọn nước.
Nay phận dĩ lỡ, lưu xứ như kiếp nợ trả chưa xong. Thân nơi đây, xứ người,
Oklahoma, nhưng hồn quanh quẩn bến sông Vàm, sông Mỹ, bến Rạch Miểu, v.v.
Phút tĩnh lặng, nghe như tiếng mẹ hiền, dấu chân người và bóng đỗ đường quê.
"Bên đó mùa này ngọn chướng lật
Rách bươm tàu chuối sau hè
Con nhớ má đầu trần chân đất
Ḷ ḍ mấy ngơ đường quê..." (tr. 102).
Điệu Lưu Thủy, Hành Vân đă thành cố quận. Mà thơ Vân Tiên người nói hay hát
thành nếp cũ, bên vách tranh thưa:
"Trưa hè treo vơng hát Lục Vân Tiên
Má chỉ muốn con như người họ Lục
Cho dẫu má cứ đầu trần chân đất
Gió cứ lùa thông mái vách thưa..." (tr. 103).
"Thằng trai Nam kỳ nhớ về lục tỉnh
Tên đăng tử Mỹ Tho nhớ ḍng Bảo Định
Một khoảnh đời gạo chợ nước sông /
Nha Mân tháng này con nước hỗn leo đồng
Bày cá quẩy lia chia đầu ngọn sạ (...)" (tr. 49).
Nhớ thương th́ cũng chỉ ở nơi nầy, đă xa, bởi cũng v́ gió chướng cuộc đời mà
thân phận thua phải đỗ "bến" Oklahoma. Giữa hay cuối một kiếm t́m, có tra
vấn cũng vô t́nh thôi.
"(Sao vậy, Okla
Sao bếp lửa không là nơi sum họp
Sao lửa chỉ kể về những kẻ đi xa?)" (tr. 17).
Nơi có những buổi sáng "bàng hoàng gặp thoáng nắng vàng lục tỉnh" (tr. 27).
Và có những đêm. "Đêm nằm trăn trở. Biển sông xa" (tr. 97). Ừ nhỉ, "khất
khưỡng chiều say trên xứ lạ" mà mơ hồ thấy lại chiến hạm xưa. Giữa huynh đệ
chi binh, c̣n có thể nào "vỗ mạn tàu mà ca"?
"Sóng tự nguồn xanh lăn với suối
Hai mươi năm nở một ngọn phiêu bồng
Cám ơn người đă thương ta như sống
Hèn chi đời ngợp sóng
Cám ơn ai đă yêu ta như biển
Nên ngậm sóng trong ḷng (...)" (tr. 94).
Đành "Thôi, vổ vào kư ức mà ca / Có hạt mưa nào vừa bay qua khóe mắt" (tr.
96).
Buồn. Nhất, với ngọn gió tháng Tư tàn khốc. Gợi nhớ một "tháng Tư đưa cơn
băo rớt âm thầm":
"Nhỏ rời ta như bỏ chiếc răng đau
Tháng tư thổi dốc cầu xưa rờn rợn
Ngày tắt muộn và cơn mưa đến sớm
Bâng khuâng rơi ướt cánh phượng đầu mùa..." (tr. 26).
Có những ngọn gió đời đem t́nh yêu đến. Mùa Thu buồn xa xứ, có lá đỏ bay.
Em, và nụ cười, bên vành nón, ánh mắt nào!
"Bốn mùa tôi nhỏ dấu nơi đâu
Mà nụ cười dấu ở khăn tay
Mà ánh mắt dấu sau vành nón
Mà lời người dấu trong gió bay..." (tr. 48).
Có Em th́ "h́nh như mọi sự chỉ mới bắt đầu" (tr. 136). Có tiếng người yêu
dấu. Nhẹ nhàng gió có lên lúc nhớ Em.
"Lúc nhớ em tôi hay nghĩ về rừng
Thu và gió và bầy chim xao xác
Tôi đă bảo với ngàn cây tan tác
Có thể nào cũng đừng trách em..." (tr. 33).
Gió đó lay động tóc đuôi gà. Và t́nh yêu. Dù có mưa:
"Đêm nằm mưa Oklahoma
Mưa bên ấy, mưa bên này biển lớn
Hạt lất phất trong ta ḍng bất tận
Gió không lay sao lộng tóc đuôi gà..." (tr. 69).
Gió có liên hồi, vực gió, đám bạn bè, chai rượu, tiếng cười nói, cứ như
Bá-Nha Tử-Kỳ! Bên góc rừng:
"Lá từ vực gió theo người
Vèo qua cửa hẹp vào chơi chỗ nằm
Chiều hôm nhặt lá quanh pḥng
Thấy trên tờ nhỏ dâu chân bạn bè" (tr. 64).
Và ngọn hải đăng t́m thấy!
Không giản đơn, ngọn hải đăng! Có một hải đăng buồn. Đơn độc. Tuy vững như
bàn thạch. Giữa băo táp, lửa loạn. Ngọn hải đăng, một chỗ để về, để nhung
nhớ:
"Lúc nhớ em tôi hay nghĩ về biển
Nơi cổ sơ tôi bước lạc cơi người..." (tr. 34).
Ngọn đèn biển. Kiếp dơi bóng và rọi sáng, sáng trong tâm tưởng. Mỗi khi nhớ,
là một Mỹ Tho yêu dấu.
"Mặt trời qua xích đạo chói chang
Ngọn đèn biển kiêu căng đón gió đấu ghềnh
Chú ốc mắc cạn ngủ vùi bên kè đá
Chập chờn mơ giấc đai dương xanh..." (tr. 56).
Đông đang về, đành phải cập bến thôi.
"Chào, cúi chào những bông tuyết đầu mùa
Chàng thủy thủ cuối cùng rồi cặp bến
Trả giống tố cho mịt mùng biển lớn
Trả nắng cho boong, trả gió cho buồm..." (tr. 76).
Phần hai tập thơ là những lời t́nh với hải đăng, với yêu dấu, ở nhiều khung
cảnh (tháng tám sinh nhật, ngày hè, tháng ba, ngày giáng sinh,...), ở nhiều
t́nh cảnh và trên hết trăi rộng lời tâm sự, tỏ bày, nài nĩ 'ngập ngừng chi
lắm, hải đăng", "hăy nói rằng ta vẫn c̣n em", "nhiều đêm thế đấy, hải đăng",
những mong "cùng ai đốt lửa", "trang trải" khi chớp bể mưa nguồn,...
"Cũng có khi bắt gặp một tấm ḷng
Bỗng hăi sợ tự tiền căn oan khốc
Lăn về đâu, cổ xe già kiệt, dốc
T́nh về đâu, cứ hỏi gió về đâu" (tr. 21).
Cũng v́ hải đăng mà "anh mê miết về phương xanh ngơ ngác / ngày bay dài bỗng
rớt buổi chi lan" (tr. 126)., một buổi xế chiều, cành hoa nở vội! "Nhớ em
nghĩa cũng trăm đường hỗn mang" (tr. 123). V́ đă quyết"Tôi ôm đẹp t́nh gần"
(Khơi). T́nh khơi dậy nguồn thơ, nguồn sống. Khởi từ một hương đời "Hương lạ
giữa tro tàn"!.
Hải đăng là Em. Là yêu dấu, v́ có lúc tha nhân không là địa ngục. Chiếc vỏ
chai thả trôi năm xưa đă đỗ bến. Dù "chiều biển lạ chửa tàn cơn mộng dữ /
Ngập ngừng chi lắm, hải đăng?":
"Ta dong buồm đơn độc suốt trăng
Trôi đi, trôi đi cuồng lưu kư ức
Băo nổi lên rồi, đạo suy đời tận
Yêu em, hải đăng..." (tr. 109).
Hải đăng hỡi, "về đâu chiều lạnh" khi "mọi sự đều mong manh thế, hải đăng".
Thôi, "t́m ai chiều lạnh, hải đằng", Chúa th́ ở xa, cao, t́m chi nữa, "mệnh
số này, cầm lấy, hải đăng"! t́nh yêu như ám ảnh. "Em đâu đó chập chờn làm
con sóng / Vỗ loanh quanh nỗi nhớ bức không rời" (tr. 113).
Vô tri hải đăng như chứng nhân câm nín của t́m kiếm, bất hạnh,"những người
đàn bà ra đi tất tả / cùng những lời chúc lành". Đă chúc lành sao lại bỏ đi?
Đă ra đi sao c̣n gian dối đa ngôn?
Ngọn đèn có tỏ có lu, nhưng muôn thuở ngóng đợi những bầy hải âu biệt xứ,
những người con bỏ xứ bỏ quê. "cái thuở người xa tàu mất biển" (tr. 113),
"mười lăm năm luân lạc, quên, hải đăng..." (tr. 114)..
Và hạnh phúc t́m thấy, Tập thơ kết đoạn ở biển bờ Tây Bắc, ở ngọn hải đăng
hạnh phúc. "Triều lên triều lên thành sóng dựng / Hạnh phúc lớn lên như
triều dâng". Hạnh phúc, sau cơn "hụt hơi réo gọi những hồn tàu / Ta đến đây
như trở lại từ đầu / Thả chiếc neo giữa ḷng em độ lượng...":
"Hỡi những ngọn đèn biển bờ Tây Bắc
Lặng lẽ vươn vai soi rọi đời t́nh
Soi hoài công mấy hồn tàu lưu lạc
Trôi trắng cuộc nhân sinh"
Chân lư giản đơn t́m thấy:
"Hạnh phúc có khi đơn giản vậy, hải đăng
Nên đêm lưu xứ bỗng vui ngút mắt
Hỡi những ngọn đèn biển bờ Tây Bắc
Thênh thang ta đă có một phương về" (tr. 152).
* * *
Một năm sau tập truyện Con Gái Người Gác Đèn Biển, Nguyên Nhi tŕnh
làng tập thơ 158 trang: Quái Phong (Văn học Nghệ thuật Liên mạng,
2000). Đọc thơ Nguyên Nhi như xem lại phận ḿnh. Mỗi người. Nguyên Nhi chỉ
c̣n là cái cớ. Nếu phải cần cớ. Như tiềm thức trở về. Như tiếc nuối. Như đă
nguồn cơn, đau và khổ ải cuộc đời! "Chuông gọi dục hồn ai cố xứ / Hướng
dương gục nhập màu vai áo cũ" (tr. 137). Người làm thơ, "như tráng sĩ mạt
thời đêm đêm ngắm trang mài kiếm / để tự cắt đầu ḿnh" (tr. 20)! Thơ Nguyên
Nhi như mở một phạm trù, dù rướm máu vết thương tiềm thức! Thơ cô đơn trước
Em, người t́nh vừa kiếp nào đưa đến, như tặng phẩm, như dịu êm. Có Em, tóc
đuôi gà, nhưng gió chướng vẫn thổi qua, bên ngọn hải đăng của kư văng, của
tưởng đă quên, đă xa...
Con nước đă kiệt, cỗ xe già dừng bên ngọn hải đăng, bên những con hải âu"xao
xác mặt trời ch́m", những con dế gáy và những con "dă tràng buồn hiu lại
thức giấc". Xa những Ngă Ba Lộ Tẻ của cơi mù tăm hay u minh nhân thế; mặt
trời ám mà thiên địa cũng ám tối! Oklahoma, chốn cỏ bồng dừng chân hay vĩnh
viễn an cư? Cứ xem như đă thật xa những cơn gió cuốn, những trận băo cuồng,
"ngọn quái phong thổi suốt bốn ngàn năm..."! Xa những con dốc đời. "Con dốc
xưa tôi đặt tên dốc Đợi / ... Con dốc nay đ́u hiu con dốc Nhớ ..." (tr.
39). Giữa rừng Thu, ngàn cây tan tác, những bầy chim xao xác...! Trầm buồn,
buồn lớn, giữa những reo vui, thiết nghĩ, thơ đă lắng đọng nơi con người lưu
thân xa xứ. Và không nơi nào đẹp hơn quê hương, sách đồng ấu năm xưa đă nhắc
nhở!
Nguyễn Vy Khanh
23-8-2000
"Đọc Khói Sóng
Trên Sông của Nguyễn Văn Sâm". Văn (CA), số 42, 6-2000. tr. 84-91; Văn
Học Và Thời Gian (Westminster CA: Văn Nghệ, 2000), tr. 317-328. Liên hệ
đến Mỹ Tho gần đây có Nguyên Nhi với Con Gái Người Gác Đèn Biển
(1999) và Quái Phong (2000) nhưng địa phương tính đă phai nhạt ít
nhiều!
Giới Thiệu Sách Mới
Trong thời gian qua
Văn Nghệ Biển Khơi đă nhận được sách gửi tặng sau đây từ Nguyên Nhi, Xin
trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.
- Lẽ Ra... Mùa
Mận, tập truyện ngắn – tùy bút, Nguyên Nhi, 308
trang, Trẻ Magazine xuất bản, 2009, Texas, Hoa Kỳ. Ấn phí 12 Mỹ kim.
Nguyên Nhi, cựu Sĩ
Quan Hải Quân VNCH, văn sĩ, thi sĩ, một trong những cây viết thường xuyên
của Biển Khơi rất được độc giả yêu thích. Anh cũng từng cộng tác thường
xuyên với nhiều sách báo văn học khác xuất bản ở hải ngoại.
Lẽ Ra... Mùa Mận
là sách xuất bản thứ tư của Nguyên Nhi sau tập truyện
Con Gái Người Gác
Đèn Biển,
tập thơ Quái Phong,
và
Trèo Lên Cây Bưởi.
Ngoài ra anh đang dự tính sẽ xuất bản
Bước Ra Vườn Cà
(phiếm), và
Một Miếng Trầu Cay
(phiếm) trong tương lai gần đây.
Một vài trích đoạn từ
Lẽ Ra... Mùa Mận :
...Bài ca ấy lăng
đăng trong những giấc mơ anh. Mà anh có nhiều giấc mơ kỳ cục lắm. Trong một
giấc mơ, anh thấy vị thuyền trưởng ấy bước lừng lững xuống mé nước. Hai chân
ông liền lại, biến thành chiếc đuôi cá dịu nhuyễn. Hai cánh tay ông teo tóp
dần, biến thành hai cái vi nhỏ xíu. Ông cất tiếng huưt gió gọi đàn. Rồi ông
lẫn lộn đâu đó giữa bầy dolphin đang tưng bừng giỡn trăng. Rồi tất cả bỗng
trở nên im lặng vô cùng...
(Bài Ca Dolphin)
...Nhưng bây giờ
nghĩ cũng kỳ, thỉnh thoảng anh ta lại thấy chính ḿnh vừa độ thanh niên. Mắt
sáng. Tóc bồng. Bây giờ, cũng kỳ, thỉnh thoảng anh ta lại thấy con tàu đương
thời thiếu nữ. Ngực nở. Môi tươi. Anh ta thấy ḿnh đang trụ đầu pháo tháp,
vỗ mạn tàu mà ca. Anh ta lại nghe lại một hồi c̣i u u trầm mặc. Tiếng c̣i
tàu mở đầu một ra khơi đồng thiếp....
(Thấy Mơ Hồ Một Chiến Hạm Ra Khơi)
Liên lạc :
Trẻ Magazine
P.O. Box 462432
Garland, TX 75042-2432
Phone : 972-675-4383
Email :
dallas@trenews.net
http://www.trenews.net
Sài G̣n, người cũ, khoảng trống ...
Tác giả:
Nguyên Nhi
1. Sài G̣n, người cũ,
khoảng trống ...
Một
Trước hết hăy nói về
chuyện cái tên. Tôi kỵ tên Mike. Chưa tới đỗi ghét,
chỉ kỵ! Phải nói Mike là cái tên khá tốt. Nhưng tôi
kỵ tên Mike không phải v́ tên tôi xấu mà tại lư do
khác. Bạn bè tôi hồi nhỏ nhiều đứa tên Mike. Nhiều
đến nỗi tụi tôi thường lẫn lộn Mike nọ với Mike kia,
muốn phân biệt thường phải ghép sau tên Mike tính
cách con người. Mà không ǵ dễ nhớ cho bằng cái xấu,
hoặc cái không được tốt. Vậy là các hỗn danh Mike
Đểu, Mike Đía, Mike Xạo, Mike Cù, Mai Đầu Ḅ... ra
ḷ. Riết, nghe tới tên Mike tôi đâm ngán ngược!
Người tên Mike hăy cứ tức khí nếu cho rằng tôi thô
lậu. Nhưng tôi không là đứa quơ đũa cả nắm: tôi biết
người khiếu nại ấy là Mike Hiền Triết hoặc Mike Bô...
(Bô đây là đẹp, không dính líu chi đến... cái kia!
Mike Bô là Mike Đẹp Trai.) Ngoại lệ quả có vậy nhưng
tôi vẫn vậy, biết sao? Người tên Mike hăy cứ mắng mỏ
nếu cho là tôi quá khích. Nhưng tôi không là tên
khiêu khích: chẳng ai liều mạng đến độ chọc quậy vào
cái tên cúng cơm của người ta. Cứ tức khí rồi mắng
mỏ, nhưng giả nếu có hăm bắn bỏ th́ tôi cũng chẳng
thay đổi được ǵ. Vẫn ngán ngược tên Mike. Cuối cùng
th́... sự thật thà nào cũng đáng được kính trọng chứ?
Lại nói thêm chút về
chuyện cái tên. Hồi lâu lắm tôi có đọc được một
truyện ngắn tàm tạm. Tên tác giả th́ quên, tên của
truyện th́ nhớ: Mỹ Thơ! Có người liệt truyện này vào
số những truyện ngắn hay nhất tiền chiến đó! Nhân
vật tôi trong truyện tên Mỹ và người con gái kia tên
Thơ. Hoặc ngược lại, lâu quá không nhớ nổi. Nhưng
việc ngược xuôi ấy không quan trọng: hai cái tên
người ghép lại vẫn là Mỹ Thơ và thành phố Mỹ Tho
thời thơ dại của tôi trong truyện ngắn kia biến
thành Mỹ Thơ ngon lành! Nghe tưởng gần gần nhưng xa
lơ xa lắc! May cho tôi là những ư kiến, hoặc ư tưởng,
của các nhà văn thường chỉ được đóng khung trên
trang giấy. Sẽ chẳng có sự ǵ xảy ra nếu họ, nhờ may
mắn, bị thất bại trên những lănh vực khác. Ơn trời,
họ thường có được cái may mắn này! Nhưng giả dù tác
giả là một nhà hoạt động xă hội lừng tiếng hay là
một chính khách lỗi lạc đi nữa, việc đổi tên Mỹ Tho
thành Mỹ Thơ, đối với tôi, vẫn gây phẫn nộ ghê gớm.
Vậy là đất có tên đất,
người có tên người. Vậy th́... tôi trở lại Sài G̣n!
Hai
Từ Mỹ Tho tôi trở lại
Sài G̣n đôi ngày cũng bởi vợ tôi. Nàng muốn gặp vài
người bạn quen hồi ở Mỹ, bây giờ đă trở lại Sài G̣n
làm ăn và yêu đương. Tôi biết không ít người không
tiếc mạng cùn để thoát khỏi sự tù hăm trong nước,
sau một thời gian, tưởng đă an cư trong xă hội mới,
đă biến thành con người khác, với cái tên và nghề
nghiệp khác, bỗng một hôm phát hiện ra một khoảng
trống sinh tồn nhỏ nhoi vừa le lói chốn quê nhà. Bèn
ṃ về. Buổi tối ngồi lai rai với hai họa sĩ nữ, bạn
của bà xă, là buổi tối khá thú vị. Dĩ nhiên bèo dạt
hoa trôi chân trời góc biển th́ nhắc chuyện quê
hương, tụ về cố quận th́ nhắc chuyện xứ người. Bạn
về hơi lâu, tôi ở xa mới về, có vẻ tôi biết chuyện
bên đó nhiều hơn. Thiệt ra viễn xứ chẳng có tṛ ǵ
mới! Tôi vẫn rất bận rộn lùng sục cái mà xă hội lúc
nào cũng đ̣i hỏi: tiền. Bận bịu tới đỗi không c̣n
thời giờ để tận hưởng cái mà xă hội đă hào phóng ban
phát: tự do. Tự do nhiều quá, có nhiều thứ tôi không
biết dùng để làm ǵ! Quân ta bên đó th́ cũng vậy vậy
qua ngày! Năm tới, hoặc năm tới tới nữa, bạn về lại
Mỹ th́ chuyện căi cọ nhau về gay ghiếc vẫn chưa xong
và các chuyện bảo hiểm sức khỏe, an sinh xă hội, an
ninh quốc gia... sẽ vẫn c̣n lu bu nguyên vậy. Nếu
mọi sự được giải quyết ổn cả rồi th́ các chính khách
sẽ mất hết hứng thú để đấu đá nhau và e rằng các ứng
cử viên tổng thống sẽ hết tiệt đề tài tranh cử.
Nhớ hôm bao xe đón vợ
chồng tôi từ phi trường về tỉnh nhà, ông già tôi có
ư tưởng ngồ ngộ là giới thiệu với tụi tôi một Sài
g̣n giờ đă “đổi thịt thay da”. “Hê bác tài, đừng gấp!
Cứ chạy ḷng ṿng một đỗi cho chúng biết Sài G̣n
ngày nay! Bây biết Sài G̣n bây giờ dữ dằn lắm rồi,
không c̣n như hồi bây mới đi đâu!” Thành phố bị lột
da lóc thịt đă đành, nhưng phèo phổi tim gan của nó
vẫn c̣n nguyên vẹn chớ?
Sài G̣n lạ hoắc! Nhưng
tôi không cần cái mới lạ! Cần cái mới cái lạ th́ tới
nước nào khác, thành phố nào khác mà chẳng có? Tôi
không trở lại một thành phố nào đó để nh́n xem sự
thay đổi không ngờ của nó. Không để gặp những con
người mới. Không để bàn về những cái mới. Tôi muốn
t́m lại một nét cũ. Vẫn tươi rói trong kư ức. Vẫn
đau đáu trong cơi ḷng. Một chút ǵ đó rất nhỏ nhoi
nhưng lại gợi lại cả một khung trời mông mênh cũ.
Nói thiệt chớ chẳng chơi, tôi t́m măi chẳng ra hồn
xưa phách cũ Sài G̣n. Tôi thầm ước được như ông thi
sĩ Đinh Hùng: “Thu năm nay tôi lại đi trên con đường
vắng này, nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ... Nắng
ở đây vẫn là nắng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là
linh hồn tôi năm trước...” Có thể tôi nhớ lộn xộn,
trích lộn ṣng, nhưng chắc chắn tôi mất cả hai. Nắng
Sài G̣n bây giờ chập choáng bụi bặm.
Xe chầm chậm. Ḍng xe
tắc ứ ở Ngă Bảy. Mái hiên mưa năm đó đâu rồi? Không
c̣n nhận ra bờ tường ngày nào anh thường binh che
bạt làm chỗ vá xe đạp. Tôi không c̣n nhận ra con hẻm
Cát Lợi. Con hẻm, xưa, mang tên trại mộc mặt tiền.
Hồi đó, đầu hẻm có con nhỏ dấu mái tóc ngắn cũn cỡn
sau thùng thuốc lá. Hồi đó, con hẻm sâu hút dày đặc
thợ thuyền đổ xô về nhà má Tư ăn cơm tháng. Má Tư
nấu cơm ngon mà rẻ. Căn dưới nóng hâm hấp hơi người.
Căn gác, chiếc cầu thang dốc đứng, khung cửa sổ hẹp
té mở ra một mảnh trời nhỏ xíu trên những mái tôn
hàng xóm cháy sét lỗ chỗ, là giang sơn của bốn cậu
sinh viên tới từ tỉnh lẻ. Tài Khều và Bin Lùn cùng
quê Sóc Trăng, rủ nhau đi Thủ Đức đầu năm thứ ba
Khoa Học. Khoa Kḥm quê Mỹ Tho, sau một năm biểu
t́nh băi khóa ở trường Luật, lấy bằng Cử Nhân rồi
biến vào Khu. Nghe nói sau bảy lăm về thành làm Chủ
tịch phường nào đó một thời gian rồi ra ŕa do giải
quyết nội bộ. Căn dưới ngày nay nếu c̣n th́ cũng
quanh quân hồn ma những bác Tám thợ hồ, chú Năm thợ
mộc... nhớ bữa cơm trưa trong tiếng nhạc xập x́nh
nhăo nhoẹt từ chiếc máy quay dĩa đầu bếp. “Hôm nay
ngày Chủ Nhật, vườn Tao Ngộ em đến thăm anh... Đường
Quang Trung nắng bụi...”
Thỉnh thoảng, cuối tuần, Bin có phép, ghé tạt qua
căn gác cũ, kể chuyện về những hàng cây bă đậu trong
quân trường. Nó kể hay tới đỗi những chiếc lá bă đậu,
vốn chỉ nổi danh là thứ lá thuốc dân gian trị táo
bón, đối với tôi bỗng trở thành thân thương; và rồi
những tàng cây bă đậu dọc sân banh Cộng Ḥa trong
những trưa nắng chảy mỡ học Huấn luyện Quân sự Học
đường trở thành nỗi ám ảnh trong nhiều năm. Tới nỗi
tôi nghĩ rằng nếu gốc phượng vĩ nhắc lại cho người
ta tuổi học tṛ th́ những hàng cây bă đậu gợi lại
cho họ ta những ngày mới vô lính. “Từ những hàng cây
bă đậu của ta/ Ném xuống trăm năm bài ca chính khí...”
Ôi, có một thời như vậy... Cái thời trái tim non rộn
ràng xung trận và những thoáng bâng khuâng nhớ về
một cơn mưa bất chợt qua thành phố đêm. Một người
bạn ở Mỹ, biết làm thơ, thường nói với tôi về ước mơ
một tối nằm nghe mưa trên căn gác cũ ở Sài G̣n. Thật
lăng mạn và cũng thật tội nghiệp. Mọi điều lăng mạn
trong thiên niên kỷ này đều đáng thương hại. Tội
nghiệp tiếng mưa trên mái tôn căn gác nhà má Tư!
Xóm B́nh Tiên không c̣n gương mặt cũ. Không c̣n bến
xe lam Cây Gơ. Chị Hai Đẹt sau bảy lăm không muốn
dọn đi Kinh Tế Mới, dắt díu hai đứa con gái lớn tật
nguyền, con Phước với con Huê, về Cai Lậy, giành lại
miếng ruộng hương hỏa, nơi chị đă thề độc chẳng bao
giờ trở lại sau ngày lấy chồng. Hai đứa nhỏ, thằng
Đực và thằng Út ở lại với nội ít lâu, khi ba chết
cũng thối về ngoại. Nghe đâu đây tiếng xích lô máy
b́nh bịch buổi sớm anh đổ xuống đường kiếm gạo. Gặp
lại con Phước con Huê sau ngày tôi ở trại tù về, đó
là hai phụ nữ không có thời thiếu nữ. H́nh như thể
chất chúng không buồn phát triển mấy với thời gian.
Chỉ có những nếp nhăn trên mặt. Đứa vẫn lết trên
chiếc chân phải khẳng khiu và cứng ngắt như que củi,
đứa vẫn đi với bàn chân trái gập ngược. Chúng vẫn
vậy, như ngày nào chia căn gác xép vừa đủ chỗ cho
mấy cậu cháu chăng một chiếc mùng màu cháo ḷng
những khi cậu ghé về từ Tạm Trú Hạm, học Anh văn
trường Boat School chờ đi Mỹ. Mùi cống rănh xông lên
hừng hực từ dưới nhà. Và những cơn mưa đêm trên mái
tôn lụp xụp.
Lại những mái tôn. Lại những cơn mưa. Không đâu
nhiều gác xép hơn Sài g̣n. Sài G̣n yên b́nh tạm bợ
trong thời chiến và thịnh vượng giả tạo trong thời
b́nh, từng ngốn ngấu hàng hàng lớp lớp người trốn né
đạn bom và chạy vạy kiếm sống. Thành phố nhích dọc
xô ngang, căng cứng, nghẽn thở, t́m cách ngóng cổ
lên. Và cái nghèo chỉ có thể vươn cao lên ngang tầm
những căn gác xép.
Thiệt xót xa khi nghĩ rằng, từ xưa đó tới giờ, Sài
g̣n chưa bao giờ là thành phố của tôi. Dù bên kia
Cầu Bông, tầng trên ṭa nhà Hợp tác xă Nông nghiệp,
chú sinh viên trường Luật bụi đời, sau vài tháng nợ
tiền ăn ở nhà má Tư, tới chia pḥng với một cậu sinh
viên Nông Lâm Súc cùng quê. Thả dọc xuống con kênh
Thị Nghè đục ngàu, tôi sẽ tới quán cà phê đèn mờ hiu
hắt rũ rượi nhạc vàng của một họa sĩ trẻ. Nếu có
chút ǵ sáng láng trong thế giới mờ ảo ấy th́ đó là
cô em gái của nhà họa sĩ, cô thoải mái gởi quán cho
người khách ĺ đ̣n với ly cà phê buổi sớm rồi thoải
mái xuống chợ chuẩn bị cho buổi cơm trưa. Nhà họa sĩ,
thảng gặp, hay ngồi một góc với cuốn tự điển trong
tay, không hiểu Hán Việt hay Anh Việt. Trên tường la
liệt những bức chân dung tự họa. Một bức vẽ bản mặt
ngầu và nắm đấm che một phần má, dứ dứ về phía người
xem. Có thể anh ta chỉ muốn biểu lộ thái độ đả đảo
cuộc đời khơi khơi, hăm he nhơn loài chung chung vậy
thôi, tuy nhiên những bức tranh ấy đă khiến người
xem tranh yếu bóng vía là tôi chỉ dám bày tỏ ḷng
ngưỡng mộ cô gái bằng đôi câu ầu ơ vớ vẩn.
Rồi Sài G̣n của người ta là những ngày tàu cặp bến
ngắn ngủi. Để sửa soạn mười ngày lương tươi và ba
tháng lương khô cho chuyến đi biển kế. Chiều chiều
ngồi lề đường nhắm rượu đế nhơi khô mực, nghêu, nh́n
người ta gồng gánh lễ mễ qua đ̣ Thủ Thiêm. Buổi tối
đeo theo người thủy thủ già sau chiếc mô by lét ho
lao, đổ bộ xuống xóm Bàn Cờ rồi nằm ói vật sau một
điếu cần sa. Dù giữa Sài G̣n và tôi chỉ có vậy, tôi
với Sài g̣n chẳng có ǵ để phiền hà nhau. Cho nên
khi vợ tôi muốn ở Sài g̣n vài bữa, tôi rất sẵn ḷng.
Hơi đau đầu là buổi sáng theo chân một thi sĩ, bạn
vợ, tới Nhà Văn hóa Thanh niên Thành phố, nghe những
thi sĩ trẻ đọc thơ phong trào rồi túm tụm ra quán
bia. Lại nghe những lời than phiền, rằng nước ta
không có những văn nghệ sĩ lớn. Ừ, nghĩ kỹ th́ cũng
thấy thiêu thiếu: một đất nước có hơn bốn ngàn năm
văn hiến, có người quả quyết là năm ngàn năm, triền
miên khói lửa vậy vậy mà vẫn không sản sinh được
những tác giả lớn, những tác phẩm lớn có tầm cỡ thế
giới, ít nhất trong đề tài chiến tranh. Buồn thiệt!
Buồn thêm là những lời than phiền này đă cũ rích!
Buồn hơn nữa là những đấng hay than văn lại không ai
chịu làm lớn! Vậy nên sợ rằng trong một tương lai
gần ta vẫn chưa có được những tác phẩm lớn. Chỉ có
những tác phẩm cũ. Chưa có được những nhà văn nhà
thơ lớn. Chỉ có những nghệ sĩ già. Một nữ sĩ c̣n rất
trẻ say sưa nói về tác phẩm đầu tay của chị, nghe
đâu sẽ là một tiểu thuyết ngh́n trang, mà chị tin sẽ
là một chấn động kinh hồn trong văn giới. Nghe chị
nói tía lia, tôi tin đậm rằng rồi đây, mươi năm nữa,
chúng ta sẽ có được một nữ sĩ già. Anh thi sĩ, người
từ Mỹ về xứ rồi ở ĺ, trầm ngâm: “Nếu trụ lại thành
phố này, không thiếu đề tài để ông khai thác. Ngay
lúc chúng ta ngồi lai rai đây, tôi nghĩ rằng đầu phố
kia có một gă đàn ông đang dẫn con gái ḿnh đi bán
trinh!” Tôi đă ăn cắp lư sự vụn của ai đó để đỡ đ̣n
cho Sài G̣n: “Đâu cũng vậy, niềm vui th́ rất giới
hạn mà nỗi bất hạnh th́ không có mức tận cùng ông
à.”
Vợ hỏi “C̣n người cũ
nào trong thành phố này để anh đi thăm không?” Tôi
đáp không c̣n ai! Tôi nói dối! Thiệt ra... Có đó!
Ba
Tôi quen anh ấy từ
những ngày đầu đi tù cải tạo.
Khi người ta hăm lăm tuổi, mọi sự đơn giản và rạch
ṛi. Lịch sử như một con điếm. Nó đă ăn nằm với tôi,
và bây giờ nó chung chạ với anh, vậy thôi! Chẳng có
ǵ vinh quang nên chẳng có ǵ tủi nhục. Những chiến
hạm cứ ra khơi, về một nơi nào đó. Bắt tay người đi,
tôi ở lại với những bất hạnh dành sẵn cho người bại
trận. Giết? Tha? Tôi chẳng cần! Điều quan trọng là
tôi chấp nhận cái giá mà tôi phải trả. Tôi vừa nói
rất thật và tôi không nghĩ rằng có ai đó lại sỉ vả
tôi về sự thật thà này.
Tôi thường tránh kể
chuyện trong tù. Chuyện tù khổ nhiều người đă kể.
Chuyện tù nhục nhiều người kể hơn. Lại kể quá hay
mới kẹt tôi. Không kể lâu ngày thành quên. Có nhớ
được th́ cũng chuyện nọ xọ chuyện kia, ngược đầu lộn
đuôi. V́ vậy, thời gian tù rạc chỉ c̣n đọng lại
trong tôi những h́nh ảnh bạn tù thân thiết và những
mẩu chuyện lon con về họ.
“Ê, tôi có hũ chao! Tôi
muốn ăn cơm chung với ông!” Một cách gây thiện cảm
đầy hiệu quả! “Nḥm cái cách ông đánh cờ tướng, cái
cách ông nhơi cơm, tôi nghĩ rằng ông chơi được!” Thú
thiệt, tới bây giờ tôi vẫn c̣n thích lời nhận xét
của anh ấy ba mươi năm về trước. Vậy là chúng tôi
quen nhau. Qua vài lần chuyển trại, số bạn tù cũ
chia năm xẻ bảy nhưng chúng tôi vẫn c̣n chung nhóm.
“Từ ngày tốt nghiệp y khoa, tôi chỉ quanh quẩn ở
Quân y viện, bây giờ mới thật sự đi... vào nơi gió
cát ông ạ!” “Vậy sao ông không nộp mạng ở Sài G̣n mà
ḷ ḍ về tỉnh lẻ này?” “Theo vợ về quê!” “Lư do
chính đáng!”
Anh ấy khéo tay lạ lùng!
Miếng thép trong tay một chút sau trở thành lưỡi dao
bén ngót. Miếng nhôm trở thành chiếc lược nhỏ xinh
xắn. Cây đàn guitar tôi giữ miết mười năm sau tù là
anh ấy đẽo đóng cho đấy. Tôi th́ nghêu ngao vô tích
sự, rảnh rỗi chút lại ṿi vĩnh học nhạc lư căn bản
từ một anh bạn tù lính biệt phái làm giáo viên âm
nhạc ở trường nữ tỉnh tôi. Đúng là vớ vẩn! Luôn cái
quần đùi bằng bao cát anh ấy cũng khâu cho tôi đó!
“Thôi ông để tôi làm quách cho rồi. Ông cứ lớ ngớ
thế th́ chốc nữa.. máu me đấy!”
Anh tập hút thuốc lào.
Không biết anh mày ṃ thế nào mà cái b́nh con sứt
ṿi biến thành cái ống bát xinh xắn. Lạ lùng một nỗi
là anh chơi nửa ngao th́ mặt mày đỏ gấc, thở không
ra hơi nhưng chị vợ anh vẫn tiếp tế đạn dược đều đặn.
Một đứa con bà phước như tôi bỗng có một kho dự trữ
thuốc lào phong phú. Thứ thuốc lào ba số tám chánh
hiệu mà giữa giờ lao động khổ sai anh nhét cho tôi
một bi nhỏ với một thẻo đường tán.
Anh được thả sớm. Tù chừng hai năm mấy. Nghe nói
người ta xét theo tiêu chuẩn chuyên viên chuyên gia
ǵ đó, lại ít nợ máu. Tôi bị nhốt hơi lâu, chẳng
phải chuyện nợ nần máu me ǵ, chẳng qua tốt nghiệp ở
một quân trường đế quốc, lại có điều kiện vù vọt mà
lại không chịu đào tẩu giùm cho, ở lại có lẽ để làm
gián điệp. Thiệt phiền hà, thậm chí rắc rối, cho
những nhà viết sử và soạn sách giáo khoa chế độ mới,
nếu đất nước vắng bóng đế quốc xâm lược và dân tộc
chẳng ai chịu làm gián điệp nằm vùng. Lấy ǵ biện
minh cho những “khó khăn nhất thời”? Cả một bộ máy
chiến tranh to lớn ấy biết dùng để làm ǵ? Phải học
làm kinh tế à? Kinh tế th́ chỉ việc lùa dân đi kinh
tế mới là đủ chớ! Nhưng rồi th́ tôi cũng về. Chắc hồ
sơ điệp vụ của tôi trắng. Cũng có thể người ta đă đi
tới kết luận rằng tôi chỉ là tên gián điệp hạng quèn,
cần thả ra để nhử, hy vọng thộp cổ được những tay
đầu sỏ. Ra tù tôi gặp lại anh ở Mỹ Tho. Anh đang cầy
cục chuyển cái hộ khẩu về Sài G̣n. Số là hồi trong
trại người ta khuyến khích nên xin về vùng kinh tế
mới, hoặc cùng lắm th́ về tỉnh lẻ, hồ sơ thả dễ được
cứu xét hơn. Anh đă nghe lời xúi dại, bỏ Sài G̣n.
Không biết bây giờ ra sao chớ hồi đó chuyển cái hộ
khẩu về Sài G̣n khó cỡ con lạc đà chui qua lỗ kim.
Vậy mà anh chui lọt!
Về được Sài G̣n, anh
rất chịu khó làm ăn. Hẳn nhiên hồi đó người biết
chuyện và tháo vác chẳng ai làm ăn trong lănh vực
nhà nước ban phép. Anh đi thuốc tây lậu! Cũng nón
tai bèo, cũng dép râu, vai ba lô con cóc, nh́n anh
hệt như một tên bộ đội đang đi công tác. Cái giọng
Bắc Kỳ sệt giúp anh vượt qua cửa khẩu, xuyên nút
chặn một cách dễ dàng. “Mẹ nó, kỹ thuật chế tạo
thuốc dỏm của bọn đểu tinh vi lắm, bột ḿ bột sắn mà
biến thành viên Âu dược đàng hoàng. Tớ bác sĩ mà
cũng lao đao v́ thuốc dỏm.”
Sau những chuyến hàng
thuốc tây lậu tôi thường gặp anh. Vừa đi buôn thuốc
lậu vừa chữa bệnh lậu, đời anh lên hương. Nhưng cái
sự lên hương ấy không ngăn được ư nghĩ vượt biên.
Thỉnh thoảng, có lên Sài g̣n, tôi thường ghé làm
phiền anh một tách cà phê, vài hơi thuốc Samit, ngồi
nghe anh toan tính chuyện ra đi. “Tôi chả tin ai cả.
Bây giờ thiên hạ tổ chức vù vọt để lường gạt nhiều
quá. Nếu giả dụ tụi tôi giao ông vài chục cây để ông
tổ chức dưới ấy, ông có dám lănh không?” “Dư sức!
Nhưng tôi đang lo một cú lớn, ông chờ đó tôi móc vào
luôn!” Nhờ mấy năm đi biển, nhờ hai chuyến vượt biên
không thành, trở về ghe và người c̣n lành lặn, tôi
trở thành đắt hàng. Một đại gia Chợ Lớn cho tôi một
cú làm ăn lớn. Họ hợp đồng sao đó để mua một chiếc
tàu cũ. Bán chính thức đó! Kế hoạch B ǵ đó mà! Tôi
hí hửng đợi chiếc tàu ấy trở về Sài g̣n từ Cam bốt.
Đợi ngày sang ngày, tháng qua tháng, cho tới bữa
sáng mắt ra rằng đó là một con tàu ma!
Tạo được căn phố mặt
tiền, rồi chẳng hiểu tiêu ḷn cách nào anh vừa được
việc làm ở một bệnh viện công, vừa có giấy phép hành
nghề giải phẫu thẩm mỹ ở góc phố ấy. “Sư nó, nhân
dân lao động là hạng bét ông ạ! Vào đây bôm cái ngực
xẻ cái cằm toàn là vợ con cán bộ với thành phần buôn
chui bán lậu cả! Bây giờ tôi bận rộn quá. Giá mà ông
bỏ được cái thành phố chết tiệt của ông đi, lên đây
chạy thuốc chui cho tôi th́ đời ông cũng khá.” Thú
thật nghe tiền th́ mê nhưng tôi không hạp với Sài
G̣n. Không hiểu sao từ những ngày xưa, giữa nhịp
sống tất bật của người Sài g̣n, tôi thấy ḿnh quê
mùa, bơ vơ lạ! Trên đường phố, và sau này cả trên
đường đời, tôi đều bị vượt qua mặt, bỏ lại phía sau.
Nhưng sự nghiệp anh
cũng có lúc lao đao. Không lâu sau đó anh vướng vào
một vụ tranh chấp làm ăn sao đó mém thân bại danh
liệt. Báo Công An Sài G̣n đăng tin anh chữa bệnh
chết người. H́nh anh lên trang Những Gương Mặt Mốc
và bị tước bằng hành nghề. Vậy mà rồi anh thoát! “Xă
hội nào cũng vây ông ạ. Cứ có tí tiền th́ giải quyết
được tất!” Đời anh lại lên hương. Trong lúc người ta
vẫn c̣n hoài nghi và hoàn toàn có đủ lư do để hoài
nghi khả năng của những anh thày thuốc vừa mới ở
rừng ra th́ pḥng mạch anh phát đạt là phải. “Tôi
chữa bệnh th́ ít, làm đẹp cho thiên hạ th́ nhiều!
Thiên hạ chịu làm đẹp lắm ông ạ, toàn là vợ con cán
bộ gộc với giới con buôn. Tôi không hiểu họ đào đâu
ra tiền lắm thế”. Có ngày anh kiếm vài trăm đô! “Ông
có cần ǵ th́ bảo nhá!”. Tiền bạc th́ ai mà không
cần? Tôi c̣n cần hơn ai hết bởi tôi nghèo. Nhưng
người ta không hỏi nợ bởi chỉ v́ nghèo. Người ta chỉ
hỏi khi bị kẹt.
Rồi th́ có lúc tôi kẹt
cứng! Đó là thời gian tôi nằm chờ đi Mỹ. Thiệt di
chí di nan! Công ăn chuyện làm bết bát lắm, đói tới
nơi. Mà cũng chẳng c̣n tâm ư đâu để làm lụng nữa.
Khám sức khỏe, không thấy có sức khỏe! Ḿnh mẩy in
h́nh bát biến lang ben, phổi in h́nh đồng bạc cắc!
Lúc ngặt, tôi thầm đội ơn anh có lúc đă he hé con
đường máu cho tôi.
Nghĩ lại, tôi chậm lớn:
hơn bốn mươi tuổi mà chưa có được cái cảm giác
ngượng ngùng khi đi hỏi nợ. Cứ nhơn nhơn như người
ta móc tiền từ trong bóp ḿnh! Đừng trách tôi nếu
lúc ấy tôi có đủ cơ sở lư luận để tin rằng
ḿnh đáng được giúp đỡ. T́nh bạn có được ở những lúc
nguy khốn nhất đời không đủ bảo kê sao? Ư, có thể
trách tôi rằng tính tôi bộp chộp, ruột để ngoài da,
cứ quen biết thôi cũng ôm bừa gọi là bạn, th́ sự
quen biết hơn mười lăm năm chưa đủ để tôi đặt niềm
tin sao? Chả phải tôi đang rớt mồng tơi, sắp chết
hụt đến nơi mà anh th́ của ăn của liệng sao? Tôi
đang cần tiền. Ít ra cũng đủ sống cho đến ngày cắp
đít lên máy bay. Đó là chưa tính tiền đút lót dọc
đường. Nhưng không lo, chẳng phải là ai đi Mỹ rồi
cũng ăn nên làm ra, anh có thể an tâm về chuyện bồi
hoàn sao? Áo gấm ai đi quỵt nợ bao giờ? Và trên hết,
chẳng phải một hôm cao hứng anh đă hé cho tôi một
chút ánh sáng sinh lộ rồi sao? “Ông có cần ǵ th́
bảo nhá!”. Tôi nhớ.
Anh cũng thoải mái buổi
cà phê chiều hôm đó. “Ông cần bao nhiêu? Bốn khâu hả?
Có nghi vấn về phổi hả? Chúng làm khó, bắt ông ở lại
thêm năm bảy tháng để uống thuốc th́... Hai trăm đô
hả? Được thôi, để tôi nói lại bà xă.”
Tôi cao hứng đến đỗi
quên là chiều hôm đó ḿnh đă vượt hơn bảy mươi cây
số mà chưa nhét ǵ vào bụng. Buổi tối, người tớ gái,
tôi đoán, ném sớm cho tôi chiếc gối trong căn pḥng
khách thênh thang, khác với lệ thường những tối tôi
ghé chơi, hay ngồi với anh ngoài hàng hiên, nói vớ
vẩn chuyện ǵ đó hồi trong trại cải tạo, nh́n ḍng
người tất tả ngược xuôi qua dốc cầu Trương Minh
Giảng. Nhưng tôi không thắc mắc về điều đó. Tôi bận
tâm về những món lặt vặt mà anh bày trí trên tường.
Một bức tượng nhỏ. Đôi cổ kiếm mà tôi không biết là
kiếm thật hay bản sao của một vơ quan nào đó. Có thể
là kiếm thật lắm! Sài G̣n hồi đó đă manh nha mốt
chơi đồ cổ của các đại gia.
Buổi sáng tôi thức dậy
sớm để kịp chuyến xe sớm về quê. Chờ hoài không thấy
anh, tôi lần ṃ xuống lầu. Tôi gặp chị ấy dưới gian
bếp. Chị đang sửa soạn cho buổi ăn sáng, có lẽ. Anh
chị không con cái. “Tôi biết đó là lỗi ở tôi. Không
con cái cũng buồn, làm lụng miết lúc già chết không
biết để lại cho ai, ông ạ.” Có lần anh nói với tôi
vậy, tôi cười: “Cái đáng buồn hơn là con cái đàn
đống mà lúc chết đi chẳng có chi để lại.” Chị đang
xắt hành. Cái gị heo nằm chỏng gọng trên thớt và
mùi thơm từ nồi nước lèo đang sôi sùng sục. Chưa bao
giờ, trừ những ngày ở trại tù, một món ăn, chốc nữa
đây là bánh canh, có sức lôi cuốn tôi mănh liệt đến
vậy. “Anh thức dậy chưa chị? Có lẽ hơi sớm...”
“Không anh ấy đến bệnh viện rồi!” Mí mắt tôi giật
giật. Có lẽ có điều ǵ bất ổn đây rồi! “Hôm qua tôi
có hỏi anh ấy...” “Vâng, tôi có nghe anh ấy nói lại.
Anh ấy tới bệnh viện rồi, vừa gọi điện về bảo tôi
nhắn anh là để giữ t́nh bạn cho được tốt đẹp như xưa
nay th́ không nên vướng vào chuyện tiền bạc. Cho bè
bạn mượn tiền th́ mất tiền và mất cả bạn. Anh cũng
hiểu là anh ấy rất quư anh“
Bốn
Nhớ hồi mấy năm đầu
trung học, tôi khoái sưu tầm những lời lẽ mà người
ta cho là lời hay ư đẹp. Lời Hay Ư Đẹp, hay Hoa Thơm
Cỏ Lạ, hay Danh Ngôn, là các câu chữ được vinh dự
trám vào những ô trống mà nhà báo không thể để tênh
hênh ra đó. Sau này tôi mới biết bài học tôi vừa học
được năm bốn mươi hai tuổi đó, cũng là một thứ lời
hay ư đẹp, đă vô phúc không nằm trong bộ sưu tập
danh ngôn đồ sộ của tôi. Chính sự thiếu sót trầm
trọng này đă biến tôi thành một đứa không biết
chuyện và không biết điều. Cảm giác đắng cay và nhục
nhă trong buổi sáng Sài G̣n mưa mờ ấy theo tôi suốt
chuyến xe lam góc đường Cô Giang- Trương Minh Giảng
đến Xa cảng Miền Tây. Suốt cả trên chuyến xe đ̣ xộc
xệch về tới Mỹ Tho. Và lạ lùng thay, theo suốt tôi
những năm xa xứ. Cho tới tận bây giờ!
Tuy nhiên thật tội cho
tôi nếu ai đó nghĩ rằng tính tôi hèn mọn, ḷng tôi
nhỏ nhen, ghét dai, hờn vặt. Chuyện nhỏ thôi mà!
Chuyện thường thôi mà! Tôi từng bắt gặp gương mặt áo
năo của má tôi sau những hôm chạy vạy vô vọng chỉ để
tôi có được tấm áo lành ngày Tết, cuốn tập cây viết
mới trong ngày tựu trường. Tôi từng quen với sự cụt
hứng. Những cái hụt chân. Những cú té đau. Điều làm
cho tôi xấu hổ hết cỡ chính là sự thiếu sót trầm
trọng trong trải nghiệm và phương cách xử thế của
ḿnh. Bài học ấy quá muộn màng và vào lúc không ngờ
nhất. Tôi tức giận ḿnh và tự sỉ vả sự non kém của
ḿnh. Bây giờ tôi có thể h́nh dung ra sự lớ ngớ tội
nghiệp của ḿnh trước cô giáo ấy. Trên đường về, lúc
nhúc con buôn và hàng lậu nhét chật dưới gầm băng
ghế, tôi ngồi xếp chân, hai tay che đùi, co ro, cố
giấu bớt phần ống quần bị bung chỉ lúc nhảy gấp lên
xe.
Lỗi tại tôi! Tôi thường
nghĩ về tính mong manh của mọi sự trong cuộc đời
mong manh này. Nhưng sự mong manh của những mối dây
liên hệ giữa con người th́ như thế nào? Đâu là biên
giới mong manh? Lỗi tại tôi đă vượt qua cái biên
giới mơ hồ đó, xâm nhập vào vùng cấm địa của người
khác! Nhưng cái ṿng cấm địa kia chỉ gói tṛn mớ
tiền bạc thôi sao? Đâu phải vậy! Có bao lần tôi đă
vô ư vô tứ làm đứt những mối dây liên hệ, những thân
t́nh v́ một cữ chỉ sỗ sàng, một lời nói vui quá trớn,
v́ một góp ư quá nhiệt t́nh? Ở mỗi con người, vùng
cấm địa của họ rộng bao và đâu là cái ranh giới mong
manh đó? Làm sao tôi biết lúc nào th́ nước sẽ tràn
ly? Lỗi tại tôi!
Nhưng trên hết, tôi
hoảng hốt v́ ḿnh đă đánh mất đi cái mà người ta hay
gọi là niềm tin vào cuộc đời, vào con người. Tôi
không tin rằng có những con người sẽ đứng cạnh tôi
trong những lúc ngặt nghèo. Tôi e dè khi phải bộc
bạch tâm tư ḿnh. Sợ không ai chia xẻ. Hoặc tệ hại
hơn, sợ người khác cười nhạo hoặc chỉ giáo ḿnh. Tôi
không dám nhờ vả ai. Sợ người khác nghĩ ḿnh không
biết chuyện và chẳng biết điều. Càng đáng sợ hơn nữa
khi tôi vẫn yên tâm khi nghe một người quen lâu phát
biểu: “Bạn bè th́ gặp nhau vui chơi cưới hỏi sinh
nhật vậy thôi chứ rồi th́ mạnh thân ai nấy lo chứ,
ai mà chia sẻ được cho ai!” Nếu vậy th́ cuộc đời này
buồn quá hở thế gian? Đáng sợ nhất là từ đó tôi lại
đi xa hơn, buồn bă hơn khi chỉ thấy người ta gặp gỡ
nhau chỉ v́ nhan sắc, địa vị, tiền tài... Tôi quên
đi mặt kia đẹp đẽ của cuộc đời. Tôi quên rằng cuộc
đời có những con người hào hiệp giống y trong những
câu chuyện tôi được đọc hồi nhỏ. Nhưng tất cả những
điều ấy là do lỗi ở tôi. Nhiều khi tôi đi quá xa, lỡ
trớn, lạc đường.
Lỡ trớn lạc đường hết
cỡ, tới đỗi tôi thiếu điều chết hụt trong chuyện văn
chương. Số là thỉnh thoảng tôi cũng đọc như ai! Và
hay để ư đến một số bài mà tôi liệt vào hàng văn
chương trích dẫn hoặc văn chương chú thích. Trong
những bài này các tác giả hay trích dẫn lắm! Chẳng
qua chỉ để kéo người nọ người kia, người xưa người
nay, vào hàng ngũ của ḿnh. Không ít những ư tưởng
lăng nhăng được củng cố bằng những ư tưởng lèng
nhèng khác, của những người khác đă thành danh về
những chuyện khác. Nếu những người đọc khác b́nh
chân như vại th́ sự việc lại nguy hiểm cho tôi! V́
tôi nhẹ dạ. Lại có óc bè phái. Đọc, thấy hay hay th́
phục. Nghe thấy đông đông th́ theo. Đến một lúc nào
đó mới bật ngửa v́ sự nhẹ dạ dễ tin của ḿnh. Đă có
lúc tôi xuưt xoa tán thưởng sự đúng đắn của bài học
mà người phụ nữ ấy dạy cho tôi. Thán phục trải
nghiệm sáng giá mà vợ chồng anh ấy muốn truyền đạt
lại cho ḿnh. Bài học khiến tôi trưởng thành hơn,
nghĩa là biết ngượng ngùng, biết dừng lại khi phải
cầu cạnh ai đó điều ǵ. Cho đến lúc tôi trở lại với
niềm tin về con người và cuộc sống. Cái câu danh
ngôn mà vợ chồng người quen tôi trích dẫn ra kia tôi
mong rằng chỉ là một cái cớ để ngoảnh mặt làm lơ chớ
không phải là một niềm tin thiệt sự. Nếu đó là một
cái cớ, sự việc chỉ đáng buồn. Nếu đó là một niềm
tin để sống cùng, đó thiệt là điều thê thảm. Nhiều
hoa thơm cỏ lạ đáng chán lắm!
Bây giờ, dù chuyện áo
cơm chưa hết lao đao, tôi không c̣n thèm một tô bánh
canh gị heo tới đỗi chết được như trong buổi sớm mù
mưa Sài G̣n năm ấy. Bây giờ anh vẫn c̣n đó, có lẽ
đời lên hương hơn năm mười lần. Chương tŕnh TV
thỉnh thoảng ngưng lại để phát h́nh quảng cáo. TV
bên ta bây giờ cũng quảng cáo thương mại dữ lắm. Hồi
đó sản phẩm dịch vụ ǵ cũng nằm trong tay nhà nước,
mà cái ǵ từ nhà nước ta ra đều tốt đẹp, không cần
phô trương. Bây giờ tư nhân nhảy ra làm ăn tùm lum,
vàng cám lẫn lộn, vậy mới cần quảng cáo. Anh đă lấn
sang lĩnh vực bào chế sản xuất kem dưỡng da, thuốc
trị mặt, trị tàn nhang vết nám và trăm thứ lỉnh kỉnh
khác... Số điện thoại anh đó! Địa chỉ cơ sở anh đó!
Kêu tắc xi, một loáng sau là tôi có thể gặp anh.
Để làm ǵ đây? Để nhắc
nhau rằng trong những ngày tháng cũ, tôi mới hăm lăm,
mọi chuyện đơn sơ và dễ ợt, cho dù đó là chuyện chết
chóc tù đày? Để nhắc lại cái vị bùi bùi của nhúm rau
muống luộc chấm chao sáng đó? Để nhắc lại những trưa
nắng chang chang, bụng đói ră trong vườn sắn mênh
mông? Để nhắc lại con lụt về qua trại tù ngày đó,
mỗi tù nhân nằm co ro trên một g̣ đất ẩm như nằm chờ
phần số trên nấm mộ của ḿnh? Để nhắc lại tiếng cú
rúc rợn da, tiếng súng nổ chát tai đêm lán bên bạn
tù vượt trại? Để nhắc lại khóm hoa forget- me- not
ngày ấy, những nhánh hoa nhà quê tôi bẻ trộm trên
đường đi lao động, cắm vu vơ dưới băi bùn trước lán
tù, chẳng bao lâu trở thành lùm nên bụi? Để nhắc
chuyện lúc đă ra tù, hôm đi câu ở miệt vườn Mỹ Phong
anh đă nhường hết phần cá bóng dừa cho tôi? Để...
Chỉ để cùng nhau nhai lại những điều có thể anh sẽ
cho là ấm ớ đó à?
Nếu ḷng tôi thanh thản
để ghé lại thăm anh th́ sự thăm viếng ấy sẽ để lại
cho anh sự bằng an? Không chắc! Vậy th́ tại sao tôi
lại tàn bạo tới mức gợi lại trong anh nỗi bứt rứt,
rằng, có một lần, do một nguyên do nào đó không biết,
anh đă đóng sập cửa trước một đứa ốm đói khốn khó là
tôi? Nếu anh nghĩ rằng sự thể là do lỗi của tôi đă
vượt qua cái ranh giới mong manh của sự liên hệ th́
tốt. Nhưng giả anh lại tự trách th́ sao? Tôi không
đành ḷng! Nghĩ vậy, thôi thà đừng gặp! Tại sao tôi
lại đưa bạn ḿnh, một lần nữa, vào một t́nh huống
khó xử chớ? Thấy chưa, tôi vẫn c̣n láu táu như hồi
nào, nhiều khi cứ quen nhau th́ ôm bừa gọi bạn.
Sài G̣n ngày ấy đă hẳn
không phải của tôi. Dù tôi đă có với Sài G̣n những
buổi trưa trong giảng đường hũ nút. Bên ngoài là
bích chương biểu ngữ tranh đấu tá lả, xuống đường
cực lực. Dù tôi đă nằm vùi với Sài G̣n trên căn gác
muỗi đói vần vũ. mùi cống rănh nồng nặc xông lên từ
phía dưới. Dù tôi đă ngồi chè chén bù khú với Sài
g̣n những chiều tàu ghé bến. Dù tôi đă ăn nằm dật
dựa với Sài g̣n những hôm chờ xuất cảnh. Sài G̣n
ngày ấy là của người khác. Sài G̣n bây giờ lại càng
thuộc về người ta. Trong tôi Sài G̣n gởi gắm hơi lâu
mùi thơm tô bánh canh gị heo trong buổi sớm mù mưa
hôm đó và dư vị đắng cay của bài học xử thế muộn
màng.
Năm
Ngồi trong cà phê Paris
ngó xuống một góc Sài G̣n. Cô bạn vợ mở quán, làm ăn
khấm khá. Góc bên kia là cà phê Highland, nơi sáng
qua tôi gặp những nghệ sĩ vỉa hè. Họ tự đặt và gọi
nhau vui như vậy. Ở Sài G̣n, hay ở bất cứ một thành
phố nào khác, loại quán nói lên thành phần, đẳng cấp
của người lui tới. Và, chết tôi chưa, có người cho
rằng chúng nói lên cả phẩm chất khách hàng nữa! Nếu
tôi không lầm th́ người trong nước có vẻ chuộng
những quán có tên Tây. Cũng như người bên đây ủng hộ
những cái tên Hoa Lư, Đất Mũi, Cây Ổi, Hương Tràm...
Dĩ nhiên tôi không nói
với vợ tôi rằng tôi ghé lại Sài G̣n v́ nàng. “Nhớ
lại xem... Thật là... không có ai ở đây để anh đi
thăm à?” Vợ tôi lại hỏi. Tôi gật: “Ừ, không có thiệt
mà!” Tới một thành phố mà không có ai để ghé thăm
th́ chán thiệt! Sài G̣n đáng chán thiệt chớ ta!
Nguyên Nhi
2008-01-29 13:41:57 |
|
|
|