Home TàuCộng KhóThắng BiểnĐông Tham-Luận Biển Đông Hải-phận Cho Quốc-Gia Lào ThủĐoạn TiêuDiệt VănHóa BảnĐồ ThuyếtTrình Edm&Calgary Dự-Án Song-Tử Tàu TrungCộng Cắt Cáp Tàu ThămDò VN Biển Đông 74,000 năm trước Hải-đồ DângGiặc Bản-Đồ Bắc TrườngSa BảnĐồ MalaysiaViệtNam Nước Việt Hình Chữ S RVN-CDWR-MainBody.pdf Hải Phận Triệu Km2 Hải Phận Triệu Km2 (Tiếp) Hải Phận Valencia TàiLiệu PhápLý BảnÐồBiênGiớiViệt-Hoa Bản-đồ Phân-Chia Vịnh Bắc-Việt VịnhBắcViệt LáThư Gởi Đầy Tớ Law of the Sea Forum Openings RVN WhitePaper75 ChinaPropaganda-LuuVanLoi TiếngNóiVịnhBắcViệt VấnÐềBiênGiới-BsNguyenÐanQuế HảiGiới ViệtHoa Vùng Biển Sâu Cho Tương-Lai LêChíQuangPhảnÐối CácĐội HoàngSa NamQuan BiểnĐông ThiênKỷMới Biển Đông Ô Nhiễm VịnhBắcViệt-HàngHải VịnhBắcViệt-HuyềnThoại NguyễnNhã-NghiênCứu HoàngSa Chủ Quyền HoàngTrường HảiThươngBiểnÐôngCổThời BsTrầnÐạiSỹTổngKếtHảiChiến HảiChiếnHoàngSaNóiChuyện Hải Chiến Hoàng Sa HQ16ÐàoDân HảiChiếnHoàngSaTrầnThếÐức VĩnhLiêmHoàngSaHảiChiến Chuyện Một Con Tàu NgườiBạnHảiQuân BạnTôiSầuÐông HồngNhanMộtThời CâyÐinh NhữngÔngThánh ÐờiSống CăngThẳng HỗnChiến NgỗngTuyết NgườiĐànBà CònNụCườiNào SóiGià SachMoiNgoTheVinh TranhCổTấnTinhChâu HảiQuân Còn Mất TuầnThám NguyễnVănƠn FutureDestroyer Mischief Situation DER-HQ4 To Chuc HQVNCH Forgotten ASPB Études Vietnamiennes Environments'Protection VN Water Culture Legends-Water Realm Useful Books&Maps VN Sovereignty Vietnam Energy Raft Across Pacific Triết Lý Nước HảiQuânViệtNam TừBaoGiờ Hàng Hải Gốc Rễ Việt Nam Ðịa Lý Biển Ðông Thuật Ngữ Hàng Hải NgườiViệt KhámPhá MỹChâu Ngày HảiQuân1973 Lịch Sử Thuyền Bè Bài Vè Thủy Trình Petrus Ký&VănHoá Thuyền Photo Album Người Thủy Thủ Già SoạnThảo HảiSử MộtNgàyVớiÐÐCang Lược Sử Nước PhanQuỳnh NguyễnVănLục HT Nguyễn Văn Lộc VũNgọcRuẩn BốTôi VũVănToàn ThơVăn HoàngĐìnhBáu KỷNiệm ÐờiQuânNgũ ChiếcBình TháiLọ ChânDung SVSQHQXI BảoBình&HìnhẢnh Quê Nhà 50 Năm Trở Lại ChuVănAn2B3-1956 Giải Ảo! HãyTỉnh Giấc Mơ Ma AnhHùng NguyễnThànhSắc ThuỷThủĐoàn HQ-4 ChiếnThuật ĐầuChữ T HìnhẢnh HQ4 HảiChiến HoàngSa TrangHình HảiChiến HoàngSa Trận HoàngSa Hồ Hải Hải-Chiến theo Trung-Cộng Hải-Chiến theo BùiThanh Diễn-Tiến Trận Hải-Chiến TâySa HảiChiến QuanBinhTC HoàngSa1974 HQ16-HQ5 Bắn Nhau HQ5-Rã Ngũ Đại-Tá Ngạc Ở Đâu ChuyệnMột ConTàu Bông Hồng Cho Nhựt-Tảo Danh-Sách Tử-Sĩ Hoàng-Sa DanhSách CốThủ HoàngSa TrươngVănLiêm-HQ5 TruyệnNựcCười MấyAnh SửaQuân-Sử Lệnh TamBấtĐả-HứaThếHữu AnhHùng BH NguyễnVănVượng TưởngNiệm AnhHùng NguyễnVănĐồng Phạm Ngọc Đa AnhHùng Tử-Sĩ TaoBanNuocKhong VĩnhBiệt NguyênNhi CáchNhìn LịchSử XâmLược NgườiLínhGiàHQ4 NgôThếLong NguyễnThượngLong-HảiChiến HoàngSa NguyễnThượngLong-TìmMãi YêuThương VănTế 74 TửSĩ HảiChiến HoàngSa Nhớ lại HCHS & SuyNgẫm HànhQuân TrầnHưngĐạo47 Bộ Hình ChiếnTrường HQ-4 Tài-Liệu CTCT/VNCH Các ChiếnHạm VN&TC ThamChiến TàiLiệuHQ4-TổngCụcCTCT Lố bịch kiểu Tàu phù Hải-Chiến theo LữCôngBảy Phòng-Tai của HQ-4 Tiểu-Sử Anh-Hùng Tử-Sĩ TrầnVănĐảm-AnhHùng&Nhà VôĐịch AnhHùng BùiQuốcDanh VũĐìnhQuang-AnhHùngHảiPháo Anh-Hùng Vương-Thương VưongThếTuấn: HQ4 Xin Rút Lui Người AnhHùng HoàngSa Thư HT PhạmTrọngQuỳnh Thư Bạn ĐồngMôn ChuVănAn Tìm Hiểu Gerald Kosh Văn Tế HoàngSa Những BàiCa HảiChiến HS Thư Người Giám-Lộ BứcThư 15 Năm 24 Years After Naval Battle Tiểu Sử Vũ Hữu San Tựa ToànTập Tổng-kết Hải-Chiến Hồi Ký Của NgườiVề Từ HoaLục Thư Riêng Về Đơn-Vị Giới Thiệu Gặp lại Niên-Trưởng NBT TrùmMền HôXungPhong
| |
Một
Ngày Với Đô Đốc Chung Tấn Cang

Cuối tháng 4 năm 1975, Sàigòn trong cơn hốt hoảng. Tổng Thống Thiệu từ
chức, giao quyền cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Cụ Hương, dưới nhiều
áp lực, phải nhường quyền lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh, với hy vọng
có một giải pháp ôn hòa trước sự tiến quân ồ ạt của Cộng quân. Nhưng hy
vọng mỗi lúc mỗi mỏng manh. Sàigòn khi nào bị tràn ngập? Ngưng chiến
được chăng? Chánh Phủ lui xuống Vùng IV để dễ cầm cự? Và lui binh cách
nào...? Các câu hỏi cứ đan quấn vào nhau, mỗi lúc mỗi thêm rắc rối. Giữa
lúc khó khăn ấy, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, sau nhiều năm biệt phái đảm
nhiệm các trách vụ ngoài Hải Quân, đã trở lại Hải Quân, quân chủng mà ông
đã xuất thân với đầy ưu tư gắn bó. Nhưng chẳng được bao lâu, thời cuộc
tính bằng ngày, và quanh Sàigòn Cộng quân đã có mặt. Thủy trình huyết
mạch, hơi thở của Sàigòn trong bao lâu là con sông Lòng Tàu và Soai Rạp phải
được giữ vững. Và đó còn là con đường cuối cùng của đoàn tàu của Hải
Quân Việt Nam Cộng Hòa rời Sàigòn, đem theo hầu như tất cả chiến hạm khiển
dụng với hơn 27.000 quân nhân và đồng bào. Ra đi đúng lúc, không sớm,
trước khi quá muộn. Ra đi nghiêm túc và an toàn. Đó là cuộc lui binh đẹp
đẽ, đầy kỷ luật Sau 25 năm, dù có ác ý đến đâu, chưa ai có thể chỉ
trích được, nếu không nói là đây những lời khen ngợi người điều động
toàn thể hạm đội, từ lúc manh nha kế hoạch, cho đến khi trao các chiến hạm
lại cho Hải Quân Hoa Kỳ, là Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang. Sau gần 25 năm im
tiếng, lần đầu tiên ông đã dành cho người viết một cuộc mạn đàm gần cả
một ngày. Ông đã về hưu, mắt yếu, không đọc được nhiều, nhưng trí nhớ
còn tốt. Bên ly rượu chát như một thời phong lưu đầy quyền uy của một vị
Đô Đốc Hải Quân. Ông chậm rãi kể về cuộc lui binh ấy và cả về cuộc đời
ông.
Được hỏi, ai là người có công nhất trong kế hoạch này, ông cười và đáp,
"Tất cả mọi người như anh biết, sức mạnh của Hải Quân là sức mạnh tập
thể. Trên con tàu không phải một mình ông Hạm Trưởng làm được mọi việc,
mà là sự hợp lực hài hòa, khéo léo của tất cả mọi người. Tàu tách bến
mà anh thủy thủ làm giây không buông giây đúng lúc thì con tàu làm sao ra
được. Chuyến đi nói trên là công lao của tất cả anh em Hải Quân thuộc mọi
cấp bậc. Và cũng là truyền thống tột đẹp của Hải Quân mình." Một cách
cụ thể, ai là người thảo kế hoạch, lo thi hành kế hoạch, ông đáp "Khi
đất nước đã đến lúc phải tính chuyện đi hay ở, người giúp tôi soạn
thảo kế hoạch là ông Chí (Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí), Tư Lệnh Hành Quân
Biển, ông Sơn (Nguyễn Xuân Sơn, Đại Tá Tư Lệnh Hạm Đội) ông Kiểm (Đại
Tá Đỗ Kiểm, Đại Tá Tham Mưu Phó Hành Quân) ông Luân (Đại Tá Chi Huy
Trưởng Tiếp Vận) và ông Khuê (Đại Tá Phạm Mạnh Khuê, Tham Mưu Phó Hành
Quân Biển). Đó là lúc sửa soạn." Ông ngừng một chút và tiếp "Đâu
như hôm 26/4/75, tôi có họp Bộ Tham Mưu lại, nói rõ ý định là phải ra khỏi
Sàigòn. Mà đi là cùng đi tất cả. Ra khỏi Sài-gòn, giữ lấy toàn thể lực
lượng rồi sẽ tính sau. Bây giờ các tàu bè phải lấy đầy dầu nước, tiếp
liệu càng nhiều càng tốt....Ông Luân có hỏi, thế phiếu phát thế nào. Tôi
cười, đến giờ này mà còn phiếu gì nữa. Ai mang được bao nhiêu cứ ra sức
mà mang."
Sự ra đi cuả đoàn tầu có tính cách chiến lược, vậy trước khi có quyết
định này, Đô Đốc có được chỉ thị cuả Tổng Thống hay chính phủ không?
Đô Đốc Cang đáp:" Giưã lúc mà tình hình quân sự và chính trị rối
loạn như thế, ông Dương Văn Minh không có một quyết định gì. Tôi có gặp
ông, hỏi, ông chỉ đáp:" Tuỳ các anh..." Vì thế tôi đã chỉ thị
bằng miệng cho Đại Tá Sơn, Tư Lệnh Hạm Đội để sẵng sàng đem Hạm Đội ra
biển. Và một cách cụ thể, tôi đã đặc biệt nhắc ông Sơn phải dành 2 chiếc
Dương Vận Hạm với tất cả các phương tiện truyền tin và tiếp liệu, một
chiếc dành cho chính phủ khi phải rời Sài Gòn bằng đường thuỷ, chiếc kia
dành cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Với loại chiến hạm này có bãi đáp cho hai
trực thăng."
Nhưng rồi Tổng Thống Minh không xử dụng. Đô Đốc Cang đáp:" Trước khi
đoàn tầu ra đi, tôi có cho Đô Đốc Diệp Quang Thuỷ,Tham Mưu Trưởng lên gặp
ông Minh. Ông vẫn không có quyết định nào khác, chỉ nói:" Thôi các anh
đi đi.."
Như thế Tổng Thống Minh muốn rời Sài Gòn bằng đường thuỷ rất dễ dàng. Đô
Đốc Cang tiếp:" Đúng thế, đó là một quyết định can đảm và đầy
trách nhiệm. Đúng hay sai lại là vấn đề khác.
Còn ở ngoài biển, ai là người đắc lực nhất? Đô Đốc Cang lại cười và
nói: "Nhiều người kể công mình lắm. Sai cả. Người giúp tôi nhiều nhất,
đắc lực nhất, ngày đêm lo cho đoàn tàu là ông Hùng (Phó Đề Đốc Đinh
Mạnh Hùng). Nếu phải nói lời cám ơn, hay tưởng thưởng thì chỉ có ông
Hùng." Ông lại cười và tiếp: "Mới đây có người nói là ông
Richard Armitage lo cho đoàn tàu. Sai. Ông ta chi là một vị sĩ quan liên lạc,
giữa Hải Quân Mỹ và đoàn tàu của Hải Quân Việt Nam không hơn không kém.
Khi đoàn tàu vào hải phận Phi Luật Tân, Chánh phủ Phi không cho vào, vì
đoàn tàu còn treo cơ Việt Nam Cộng Hòa. Chính tôi đã đề nghị, trảlại tàu
chiến của Mỹ cho Mỹ, theo tinh thần tài liệu viện trợ MAP (Military Aid Program),
vì tàu của Mỹ giao cho Việt Nam Cộng Hòa sử dụng, khi không sử dụng nữa thì
phải trao lại cho Mỹ, và đoàn tàu vào Subic, là căn cứ của Mỹ, chứ có vào
đất Phi đâu". Vẫn cười , ông tiếp "Ông Armitage yêu cầu đoàn tàu
đi thẳng đến Guam. Tôi bảo, không được. Gần 30 ngàn người trên tàu, bao
nhiêu vấn đề. Mà dù có đi Guam cũng phải vào Subic để tiêp tế đã chứ...
Thế là đoàn tàu vào Subic, căn cứ của Mỹ, mình giao tàu lại cho Mỹ. Trước
đó mình đã tổ chức làm lễ hạ quốc kỳ Việt NamCH rất long trọng và cảm
động"
Khi đoàn tàu rời khỏi Sàigòn, đã ở ngoài biển, mà Tổng Thống Dương Văn
Minh không đầu hàng thì sao !" Ông đáp: "Thì ít nhất ta vẫn giữ
được toàn lực lượng của Hải Quân mình. Khi ấy, nếu thời cuộc thuận tiện
ta lại quay trở lại, vào Cần Thơ chẳn hạn. — đó vấn đề tiếp liệu còn
đầy đủ. Dầu nhớt và đạn dược còn nhiều. Nhưng Sàigòn, hôm đó ấy là
ngày 29/4/1975, đoàn tàu phải ra cái đã. Ra trước khi tụi nó tiến sát vào
bờ sông Soai Rạp, Lòng Tàu. Và như chúng ta thấy, hôm sau 30/4/1975, khi chúng
ta ở ngoài khơi an toàn rồi, ông Minh tuyên bố đầu hàng. Lúc ấy có một số
tàu rời Saigòn, một số bi bắn. Chiếc tàu nào có ông nhà báo Chu Tử, bị
đại bác của xe tăng Việt Cộng bắn đó.... Chậm mấy tiếng là hỏng hết."
Còn Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh? Đô Đốc Cang lại cười và nói: "Ông
Minh lo về liên lạc, nên các chiến hạm chỉ nghe thấy tiếng ông ấy. Nhưng
trên thực tế, từ lúc tàu ra đi, cho đến khi giao tàu cho Mỹ, trên đường đi
chúng ta đều tiếp cứu các ghe xuồng của đồng bào vượt biển hệ thống chỉ
huy do tôi điều khiển vẫn rất nghiêm chỉnh. Tuy đất nước đã lọt vào tay
Cộng Sản, nhưng đoàn tàu vẫn còn trương cờ Việt Nam Cộng Hòa, và phải nói
là trên tất cả các chiến hạm, kỷ luật vẫn được duy trì, không hề có sự
rối loạn nào. Đó là công lao của tất cả mọi người, thuộc mọi cấp bậc.
Tôi hãnh diện về tinh thần ấy, và cám ơn tất cả anh em."
Được hỏi lý do thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, ông cười rồi thong thả
đáp:" Từ xưa đến nay, trong nghệ thuật chiến tranh, tiến đã khó, lùi
lại càng bội phần khó hơn. Trong lúc lui, lực lượng hậu vệ là quan trọng
nhất. Lát nưã đây, anh tiếp xúc với Đại Tá Dõng, Tư Lệnh Lực Lượng này
để nắm vững mục đích về việc thành lập LLĐN 99, nhất là sự hữu hiệu cuả
nó trong việc bảo vệ Sài gòn, nhất là thuỷ lộ huyết mạch Lòng Tào và Soài
Rạp."
Trở lại với vấn đề bảo vệ bờ biển Việt Nam, chuyện xâm nhập,được nhắc
lại về con tàu của Việt Công vào Vũng Rô ngày 19/2/1965, trong tài liệu của
Việt Cộng, đây là thứ 23 con tàu này đã xâm nhập vào ờ biển miền Nam.
Điều quan trọng là, ngoài việc tàu họ xâm nhập, họ còn có đơn vị bến bốc
dỡ hàng, và di chuyển đi ngay, có nghĩa là họ nắm được dân, Đô Đốc Cang,
cười và hỏi lại: " Anh đi tàu, các anh khám xét các ghe thuyền trên
biển, các anh khám xét giấy tờ của họ, các anh có biết giấy đó thật hay
giả, người cấp là ai..." Ông nhấp một hớp rượu vang nhỏ, rồi tiếp:
"Đó là vấn đề. Lẽ ra tại các đơn vị quanh bờ biển, bờ sông, phải do
Hải Quân cai quản... Đó là vấn đề, và ai họ giao cho mình. Tế nhị lắm. Cái
khó là ở đó.
Rộng hơn nưã, được hỏi tại sao Miền Nam mất về tay Cộng Sản? Ông đáp:
"Trước hết, ta không nắm được tiếp vận. Mỹ họ nắm, khi họ buông là ta
nguy. Hơn nữa ta không có chiến lược lâu dài các chánh phủ thay nhau như cơm
bưã, nhất sau vụ Đệ I Cộng Hòa bị lật đổ. Cuộc chiến của chúng ta lại
chỉ là tự vệ. Cộng Sản nó tấn công đơn vị mình. mình giữ được kể là
đã thắng, thì cái thua đã có từ căn bản". Rồi ông lại hỏi ngược lại
người viết; " Chúng ta như anh với tôi, đều yêu nước cả. Ta đâu có
ưa gì thằng Tây. Tại sao ta lại chiến đấu bên cạnh Tây đánh Việt
Minh." Người viết ngồi im, ông tiếp: "Tầu hay Tây đều là người
ngoài, lâu hay mau, như thứ bệnh ngoài da, từ từ ta sẽ tìm cách trừ đi
được. Còn cái anh Cộng Sản, lại là thứ Cộng Sản Việt Nam, đó là một thứ
bệnh từ trong máu, phải lo chữa trước. Bệnh Cộng Sản nó thấm vào máu, nguy
hiểm lắm. Đó là cái lý mà ta ở bên cạnh Tây đánh Cộng Sản" Vẫn ly
rượu nho trên tay, ông tiếp: "Tôi sinh năm 1926 tại Gia Định. Lúc mới
lớn, tôi rất ghét Tây. Tôi đã định ra bưng theo kháng chiến rồi đó chứ.
Nhìn thằng Tây nghinh ngang trên đất nước mình, tôi bực lắm. Giữa lúc ấy
tôi có hai ông cậu, là hai vị linh mục, đi theo kháng chiến bị Tây bắt, nhốt
ở bót Catinat. Sau được thả ra, gặp tôi, tôi tỏ ý muốn ra bưng, hai ông cậu
tôi giận lắm, mắng rằng, mày có ngu không. Ra đó ai tin mày, mày bị lợi
dụng rồi mất xác thôi...Rồi thời cuộc đưa đẩy, tôi đã là sĩ quan hàng
hải, lúc thành lập Hải Quân, tôi vào Hải Quân. Bản thân tôi, tôi không ưa
nếp sống Quân Đội. Nhưng bà cụ thân sinh tôi lại khác, cụ nói, đã là
quân nhân con không được hèn. Chết thì chết, không bao giờ hàng cả. Con
chết ở đâu má đến đó lấy xác con về. Không bao giờ hèn nhát hàng
giặc." Vẫn cười, ông tiếp: "Nếu tôi còn làm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ
Đô, có lẽ tôi sẽ ở lại chống tụi nó cho tới chết...." Người viết
bàng hoàng như vừa nghe qua câu chuyện cũ trong Cổ Học Tinh Hoa. Đợi cho sự
bàng hoàng lắng lại, một câu hỏi khác được nêu lên là "Với tư cách
là một vị sĩ quan cấp Đô Đốc, trong những ngày đầu tại Mỹ, Đô Đốc có
gặp những khó khăn, những phiền lụy gì không?" Ông dơ tay như cản câu
tôi nói và trả lời ngay: "Bảo rằng cực ư. Lúc ở bên nhà đi hành quân
nguy hiểm, đói khát, thiếu thốn bao nhiêu. Giờ đi làm, cũng chỉ vừa sức, và
đầy đủ phương tiên an toàn, vừa sẵn có thuốc men khi đau yếu, có gì là
khổ. Bảo là nhục ư. Nếu ở lại bên nhà, dưới sự hành hạ của Việt Cộng,
cái nào nhục hơn..."
Nói về những vui, buồn trong đời quân ngũ, ông chậm rãi: "Cái vui và
cái buồn đi đôi với nhau. Lúc mới ra trường, ông Chơn (Đô Đốc Trần Văn
Chơn) đổi xuống chiếc LCM, tôi đổi xuống 2 chiếc LCVP, và nằm chung với anh
em đoàn viên. 5 cái giường vải tháo ra. Lau sàn gỗ cho sạch, thầy trò nằm
chung bên nhau. Anh em vui buồn có nhau. Khi đeo tới lon Thiếu Tá rồi, xa lính.
Công việc lúc này chỉ còn có cái bàn và cái ghế, mất vui." Ông lại
nhấp một hớp rượu nhỏ và tiếp: "Năm 58, ở Trà Vinh, lúc thành lập Gian
Đoàn 23 Xung Phong, sinh hoạt với anh em đoàn viên, tôi còn nhớ anh Lạc, Hạ
sĩ cơ khí. Anh Lạc có một cô bồ bán dừa tươi ở bên kia sông. Mỗi buổi
trưa anh ta lội qua bên kia sông tán cô bồ, khi về lại mang cho tôi một tái
dừa tươi. Dễ thương lắm. Rồi đi hành quân tại Sa Đéc, anh ta chết. Bị
mìn." Nói tới đó nét mặt ông đổi khác, chìm lắng, bâng khuâng.
Suốt bưã, ông hầu như chẳng ăn bao nhiêu chỉ nhấm nhấp ly rượu chát. Giọng
nói ông như mỗi lúc mỗi thêm hưng phấn và thấp thoáng sự bồi hồi. Ông
nói: " Lính tráng lương lậu đâu có bao nhiêu mà mỗi lần vi phạm kỷ
luật bị trừ lương, ghi điểm rồi làm sao lên lon. Do đó, thấy tôi chỉ nhốt
mà không ghi vào quân bạ. Đứa nào nặng lắm, tôi đưa ra hỏi:" Thay vì 8
ngày tù, giờ mầy chịu tám hèo được không? Lính tráng như hiểu được lòng
tôi, nên bị đánh mà vẫn vui." Hớp một hớp rượu nữa, định nói thì phu
nhân cuả ông, tóc đã bạc, vẻ mặt thật phúc hậu, nhắc:" Ông ăn đi
chớ." Rồi bà quay sang nói với chúng tôi: "Hôm nay ông ấy vui lắm
đấy. Ít khi ông nói nhiều thế." Đô Đốc Cang lại tiếp: "Lúc ấy,
nhằm năm đầu thành lập Hải Quân ấy mà, quanh tôi nhiều anh em đoàn viên là
người Bắc. Vui lắm. Có lần đi hành quân tại Đồng Tháp Mười, tàu vừa nhô
ra khỏi đầu con kinh, anh đoàn viên gốc Bắc Kỳ kêu lên:" Úi chà..."
Tôi hỏi gì thế chú. Anh ta chỉ ra cánh đồng trước mặt và nói:" Mênh
mông như bể..."
Cuộc mạn đàm tới đây coi như tạm đủ. Đã 4 giờ 30 chiều. Chúng tôi gồm
anh Trần Chấn Hải, Tổng Hội Trưởng Hải Quân và anh Thân, một cựu đoàn viên
thâm niên Hải Quân, định cáo từ ra về. Ông nghiêm mặt và nói: "Từ
sáng đến giờ, tôi trả lời cuộc phỏng vấn cuả....các ông nhà báo. Bây giờ
là lệnh. Các anh hãy ở lại ăn bữa cơm nữa, rồi muốn hỏi thêm cái gì cứ
hỏi? Các vị phu nhân của Đô Đốc Cang và Đại Tá Dõng cũng hùa theo
"Đây là đất núi, có ai thèm ở lại chơi đâu...", nên chúng tôi
đành phải ngồi lại, ăn một bữa cơm chiều nữa. Trong khi chờ cơm, cuộc mạn
đàm mỗi lúc mỗi thêm vui, đầy thân mật. Đại Tá Dõng chủ nhà nhướng mắt
nhắc tôi. "Hỏi đại đi, hỏi gì cứ hỏi...". Đô Đốc Cang, vẫn xoay
xoay ly rượu vang trước mặt, liên tục kể thêm về những phiền lụy, những
hiểu lầm giữa anh em Hải Quân với nhau, ông cười luôn miệng và nói "Tôi
đã ngoài 70 rồi. Tụi trẻ cũng đã học hành xong, công việc êm ả. Tôi đã
làm xong việc đời. Tôi chỉ còn chờ hai việc: Vào nhà thương và theo về với
Chúa". Chúng tôi ngồi nghe bỗng thấy quanh quất đâu đây như một lời từ
giã. Đô Đốc Cang tiếp: "Nghĩ lại chuyện đời thật như mặt trời chiều.
Tôi không giận ai. Tôi còn mừng là đã có những quyết định đúng lúc,
tránh những điều đáng tiếc..." Ông tiếp tục nói, nhưng lại dặn:
"Thôi, viết lại các phần trên thôi nhé. Phần vừa nói, để đến khi tôi
về với Chúa, lúc ấy các anh có muốn viết thì viết."
Cơm tôi xong, trời đã tối. Khí núi đã có phần hơi se lạnh. Ông bà Đô
Đốc Cang và ông bà Đại Tá Dõng đều ra ngoài cửa bắt tay từ giã chúng
tôi. Ông Dõng nói: "Đất núi, mấy khi có khách vui như hôm nay." Xe
chuyển bánh. Qua kính xe, tôi thấy Đô Đốc Cang đội cái nón đi biển do anh
Hải tặng. Khuôn mặt ông chìm vào bóng tối, chỉ thấy cái huy hiệu trên nón
sáng loáng hiện rõ cái neo nằm giữa hai hàng lá lúa vàng tươi.
Phan Lạc Tiếp, ghi
4/10/99
|