Home TàuCộng KhóThắng BiểnĐông Tham-Luận Biển Đông Hải-phận Cho Quốc-Gia Lào ThủĐoạn TiêuDiệt VănHóa BảnĐồ ThuyếtTrình Edm&Calgary Dự-Án Song-Tử Tàu TrungCộng Cắt Cáp Tàu ThămDò VN Biển Đông 74,000 năm trước Hải-đồ DângGiặc Bản-Đồ Bắc TrườngSa BảnĐồ MalaysiaViệtNam Nước Việt Hình Chữ S RVN-CDWR-MainBody.pdf Hải Phận Triệu Km2 Hải Phận Triệu Km2 (Tiếp) Hải Phận Valencia TàiLiệu PhápLý BảnÐồBiênGiớiViệt-Hoa Bản-đồ Phân-Chia Vịnh Bắc-Việt VịnhBắcViệt LáThư Gởi Đầy Tớ Law of the Sea Forum Openings RVN WhitePaper75 ChinaPropaganda-LuuVanLoi TiếngNóiVịnhBắcViệt VấnÐềBiênGiới-BsNguyenÐanQuế HảiGiới ViệtHoa Vùng Biển Sâu Cho Tương-Lai LêChíQuangPhảnÐối CácĐội HoàngSa NamQuan BiểnĐông ThiênKỷMới Biển Đông Ô Nhiễm VịnhBắcViệt-HàngHải VịnhBắcViệt-HuyềnThoại NguyễnNhã-NghiênCứu HoàngSa Chủ Quyền HoàngTrường HảiThươngBiểnÐôngCổThời BsTrầnÐạiSỹTổngKếtHảiChiến HảiChiếnHoàngSaNóiChuyện Hải Chiến Hoàng Sa HQ16ÐàoDân HảiChiếnHoàngSaTrầnThếÐức VĩnhLiêmHoàngSaHảiChiến Chuyện Một Con Tàu NgườiBạnHảiQuân BạnTôiSầuÐông HồngNhanMộtThời CâyÐinh NhữngÔngThánh ÐờiSống CăngThẳng HỗnChiến NgỗngTuyết NgườiĐànBà CònNụCườiNào SóiGià SachMoiNgoTheVinh TranhCổTấnTinhChâu HảiQuân Còn Mất TuầnThám NguyễnVănƠn FutureDestroyer Mischief Situation DER-HQ4 To Chuc HQVNCH Forgotten ASPB Études Vietnamiennes Environments'Protection VN Water Culture Legends-Water Realm Useful Books&Maps VN Sovereignty Vietnam Energy Raft Across Pacific Triết Lý Nước HảiQuânViệtNam TừBaoGiờ Hàng Hải Gốc Rễ Việt Nam Ðịa Lý Biển Ðông Thuật Ngữ Hàng Hải NgườiViệt KhámPhá MỹChâu Ngày HảiQuân1973 Lịch Sử Thuyền Bè Bài Vè Thủy Trình Petrus Ký&VănHoá Thuyền Photo Album Người Thủy Thủ Già SoạnThảo HảiSử MộtNgàyVớiÐÐCang Lược Sử Nước PhanQuỳnh NguyễnVănLục HT Nguyễn Văn Lộc VũNgọcRuẩn BốTôi VũVănToàn ThơVăn HoàngĐìnhBáu KỷNiệm ÐờiQuânNgũ ChiếcBình TháiLọ ChânDung SVSQHQXI BảoBình&HìnhẢnh Quê Nhà 50 Năm Trở Lại ChuVănAn2B3-1956 Giải Ảo! HãyTỉnh Giấc Mơ Ma AnhHùng NguyễnThànhSắc ThuỷThủĐoàn HQ-4 ChiếnThuật ĐầuChữ T HìnhẢnh HQ4 HảiChiến HoàngSa TrangHình HảiChiến HoàngSa Trận HoàngSa Hồ Hải Hải-Chiến theo Trung-Cộng Hải-Chiến theo BùiThanh Diễn-Tiến Trận Hải-Chiến TâySa HảiChiến QuanBinhTC HoàngSa1974 HQ16-HQ5 Bắn Nhau HQ5-Rã Ngũ Đại-Tá Ngạc Ở Đâu ChuyệnMột ConTàu Bông Hồng Cho Nhựt-Tảo Danh-Sách Tử-Sĩ Hoàng-Sa DanhSách CốThủ HoàngSa TrươngVănLiêm-HQ5 TruyệnNựcCười MấyAnh SửaQuân-Sử Lệnh TamBấtĐả-HứaThếHữu AnhHùng BH NguyễnVănVượng TưởngNiệm AnhHùng NguyễnVănĐồng Phạm Ngọc Đa AnhHùng Tử-Sĩ TaoBanNuocKhong VĩnhBiệt NguyênNhi CáchNhìn LịchSử XâmLược NgườiLínhGiàHQ4 NgôThếLong NguyễnThượngLong-HảiChiến HoàngSa NguyễnThượngLong-TìmMãi YêuThương VănTế 74 TửSĩ HảiChiến HoàngSa Nhớ lại HCHS & SuyNgẫm HànhQuân TrầnHưngĐạo47 Bộ Hình ChiếnTrường HQ-4 Tài-Liệu CTCT/VNCH Các ChiếnHạm VN&TC ThamChiến TàiLiệuHQ4-TổngCụcCTCT Lố bịch kiểu Tàu phù Hải-Chiến theo LữCôngBảy Phòng-Tai của HQ-4 Tiểu-Sử Anh-Hùng Tử-Sĩ TrầnVănĐảm-AnhHùng&Nhà VôĐịch AnhHùng BùiQuốcDanh VũĐìnhQuang-AnhHùngHảiPháo Anh-Hùng Vương-Thương VưongThếTuấn: HQ4 Xin Rút Lui Người AnhHùng HoàngSa Thư HT PhạmTrọngQuỳnh Thư Bạn ĐồngMôn ChuVănAn Tìm Hiểu Gerald Kosh Văn Tế HoàngSa Những BàiCa HảiChiến HS Thư Người Giám-Lộ BứcThư 15 Năm 24 Years After Naval Battle Tiểu Sử Vũ Hữu San Tựa ToànTập Tổng-kết Hải-Chiến Hồi Ký Của NgườiVề Từ HoaLục Thư Riêng Về Đơn-Vị Giới Thiệu Gặp lại Niên-Trưởng NBT TrùmMền HôXungPhong
| |
Kỷ Niệm
Đời Quân Ngũ
Lê Ngọc Trùng Dương
Sau mùa thi năm 1969, tôi giã từ trường học, bước vào trường đời. Từ giã
bạn thầy thân yêu và
ngôi trường Nguyễn Đình Chiểu thâm nghiêm cổ kính, để dấn thân vào cuộc
chiến khốc liệt
đang tàn phá quê hương. Tháng 9 năm 1969, tôi cùng các bạn: Lê văn Tính,
Lê Minh Tiên, Lê
Minh Bạch, Lê văn Đán, Trần Quang, và Ngô Hữu Tân..., gia nhập Binh Chủng Hải
Quân;
chúng tôi trải qua thủ tục khám sức khoẻ, tại Bệnh viện 3 Dã Chiến Mỷ Tho.
Ngày đăng trình,
đoàn xe lầm lũi chạy qua con đường Hùng Vương quen thuộc. Hàng me già âm
thầm rũ bóng,
nhạc ve sầu tấu khúc, hòa cùng tiếng hát u hòai của Thanh Lan từ đâu vọng
lại:
"Anh đi rồi còn ai vuốt tóc,
Lời tình thơm sách vở học trò...
... Anh đi rồi còn ai tình tự
Đêm đầy trời tiếc nhớ bơ vơ... (1)
Âm điệu buồn như vấn vương theo những cánh phượng hồng rơi lả chả, cuốn
hút theo cơn gió
giao mùa.
Chúng tôi đến với Bạch Đằng 2 vào những ngày đầu tháng 10 năm 1969. Chỉ
vài ngày sau, là
thực sự khoác áo chinh nhân; sinh họat, tập họp điểm danh, xếp hàng theo đội
hình, tập hát
những bài hát quân hành và thực tập diễn hành. - Bạch Đằng 2 một tuần thì
được về phép lần
đầu. Hai tuần sau có lệnh đổi quân phục từ kaki vàng sang tím và mũ kepi
đen. Hai anh Lê
Sang và Nguyễn văn Báu tình nguyện mang quân phục đi nhuộm cho các bạn. Khoá
sinh kỷ
luật do các anh Lê văn Minh (Tề), Lý Tỷ, Nguyễn Văn Báu, Lê Sang đảm nhận.
Tôi vẫn còn
nhớ các anh Nguyễn Kim Hòan Mỹ, Nguyễn Văn Nghiêm, Lê Xuân Chiến, Phạm Ngọc
Quỳnh, Phan Ban. Lưu Văn Mười, Trần Đăng Bé, Lâm Thanh Khiết, Nguyễn Cường
Việt,
Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Đài, Tôn Thất Phước, Trần Ngọc Chiểu, Nguyễn
Ngọc
Dzao, Lê Văn Khá, Nguyễn Văn Khá... Anh Phạm Khắc Khiêm vào những ngày đầu,
trong bộ
thường phục thường ôm đàn hát nhạc phẩm Ngày Trở Về của Phạm Duy cho các
bạn cùng
nghe, giọng anh trầm buồn đầm ấm:
... Ngày trở về, bên bếp vui
Anh kể chuyện nghe, chuyện đời quân ngũ...
Qua bảng danh sách khóa 21 Home Page, tôi được biết một số bạn Bạch Đằng
2/69 là các
anh Đặng Qui, Văn Yến, Võ Tánh đã từ trần. Những ngày tạm trú ở Bạch
Đằng 2 rồi cũng qua
mau, chúng tôi được gửi đi tiếp tục thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang
Trung; tại
đây, tôi trực thuộc đại đội 18C. Đaị Đội Trưởng là Thiếu Úy Tôn,
ngươì Bắc, dáng cao gầy,
Đại Đôị Phó là Chuẩn Úy Tây và một Thượng Sĩ Thường Vụ khoảng 50 tuổi
mà tôi quên tên.
Khoá sinh Đại Đội Trưởng là anh Huỳnh Văn Sang. - TTHL Quang Trung chúng tôi
ngủ trên
giường hai tầng. Hàng ngày, chúng tôi có nhiệm vụ canh gác phòng ngủ, doanh
trại, thực tập
tránh pháo kích. Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi thường mua chè, cháo
lòng đựng trong
thùng đạn đại liên, do các quân nhân cơ hửu hay thân nhân của họ bán.
Buổi sáng thức dậy
sớm, sau khi "chà láng " các hầm trú ẩn, giao thông hào, chúng tôi di
hành ra bãi tập để học.
Chúng tôi được huấn luyện về căn bản quân sự, di hành, bò hỏa lực, xử
dụng các lọai vũ khí,
thực tập tác xạ, tác chiến, ứng chiến có khi ngủ đêm tại các bãi học.
Trưa đến, có xe tiếp tế
thực phẩm: cơm, canh, cá mối (chiên), khẩu phần đạm bạc, nhưng vì vận động
nhiều, nên ai
cũng cảm thấy ngon ăn. Tôi vẫn nhớ các bạn Phạm Đình Nhật Hà, Nguyễn văn
Điềm, Hà
Đăng Ngân, Nguyễn Văn Kế Ba, Nguyễn Trọng Quýnh, Nguyễn Khắc Chinh, Mai
Vàng...
Riêng bạn Trần Minh Dũng, sau giờ học tập, về trại thường ngâm nga vài câu
thơ Phạm Công
Thiện trong bài "Ngày Sinh Nhật Của Rắn". Bài hát di hành chắc nhiều
bạn vẫn còn nhớ :
Đây khúc ca nơi quân trường đầy hào hùng
Vai sát vai ta thi tài trong tình quân ngũ,
Đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm... (?).
Có những sáng sớm rạng đông đã nghe tiếng hát Thanh Tuyền, vang vọng từ
chiếc quán bên
kia đường:
Con đường xưa em đi.
Vàng lên mái tóc thề,
Ngõ hồn dâng tái tê.. (?)
Hay nhạc bản Bên Cầu Biên Giới của Phạm Duy mỗi lần ăn cơm nhà bàn:
... Bên cầu biên giới,
Tôi lặng nghe giòng đời từ từ trôi.
Sông nứơc xa xôi, mây núi khắp nơi,...
Quân trường Quang Trung đã lưu lại nơi tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Vào
những ngày Chúa
nhựt; khóa sinh được thân nhân đến thăm viếng như được diễn tả trong bản
nhạc Vườn Tao
Ngộ,
Hôm nay ngày chúa nhật. Em đến thăm anh, Đường Quang Trung nắng đổ mà em
đâu có
ngại khi tình yêu ngun ngút cao...(2)
Có lần tham dự sinh hoạt Chính Huấn cuối tuần, chúng tôi được thưởng thức
chương trình ca,
vủ, nhạc, kịch thật đặc sắc. Anh Nguyễn Văn Trào (Khóa 21 Nha Trang) biểu
diễn những màn
vỏ thuật VOVINAM hồi hộp và ngoạn mục. Chúng tôi cũng được vị Đại Úy chủ
tọa buổi sinh
hoạt CTCT đồng ý cho mặc quân phục Hải Quân màu tím khi xuất trại về phép.
Từ giã Quang Trung, nhiều bạn (đa số thuộc đại đội 20 E) lên đường, tiếp
tục thụ huấn khóa
21 Nha Trang, một số bạn về Sài Gòn, học Anh Văn, chờ đi du học. Riêng tôi
và một số bạn,
vì sỉ số khóa sinh quá đông (khoảng 650 người), Hải Quân không đủ quân
trường huấn luyện
nên được gửi đi thụ huấn tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức để ra
trường và thụ hưởng quyền
lợi Sĩ Quan sớm hơn. Tại trường Sĩ Quan Trừ Bị, tôi thuộc đại đội 16, và
cũng là Sinh Viên Sĩ
Quan Hải Quân duy nhứt ở đại đội này. Đại Úy Đức làm đại đội trưởng,
Sĩ Quan Cán Bộ gồm
có: Trung Uý Hiểu, (Sau nầy chết vì Việt Cộng pháo kích vào quân trường),
Chuẩn Uý Bá (Tốt
nghiệp Fort Benning Texas). Thành phần Sinh Viên Sĩ Quan gồm các binh chủng, Hải,
Lục,
Không quân, nhưng đa số là SVSQ Bộ Binh.
Tại trường Sĩ Quan Thủ Đức, khoảng 5 giờ sáng, chúng tôi "được"
đánh thức, di hành lên đồi
Tăng Nhơn Phú để học tập. Ai tập họp trễ sẽ bị phạt bò, hít đất, nhảy
xổm. Khoãng 10 giờ tối
thì về đến trại. Chúng tôi trải qua thật nhiều gian khỗ trong những tuần
huấn nhục như bài thơ
mà Nguyên Sa đã ghi lại như sau:
Bây giờ khẩu Garant ta mang trên vai
Bây giờ khẩu trung liên Bar ta mang trên vai
Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế nào...
... Bây giờ di chuyển đêm, di chuyển ngày, di chuyển nắng, di chuyển mưa
Ăn không được, ngủ không được, cười không được, khóc không được...
Tôi còn nhớ trong thời gian huấn nhục, có một SVSQ mang bịnh "buồn
ngủ", có lần sau khi
mãn học ngoài bãi tập, thấy vắng anh, mọi người đổ xô tìm kiếm. Cuối cùng
khám phá là anh
đã leo lên cây, dùng giây nịt, buộc vào cành cây và "đi vào giấc
mộng".
Đêm Di Hành là bài hát được các bạn tại Đại Đội 16 ưa thích nhất, bản
nhạc có lời như sau:
Đêm di hành vượt qua ngàn núi non, dù gian nan, dù chiến đãu. Mặc bụi
đường vẫn ghi lời
hứa, " Hây!". Mong xua tan quân bạo tàn để nước non thanh bình. Tàn
đêm nay, tàn đêm mai,
sương mênh mông lạnh buốt núi non...." (?)
Đầu tháng 5/70, chúng tôi về ứng chiến Sài Gòn, cũng trong lần nầy, tôi đã
quen nhà tôi và
chúng tôi đã thành hôn vào cuối năm 1974.
Sau ngày mãn khóa, tôi lại được gửi đi học trường Tổng Quản Trị ở
đường Đồng Khánh, Chợ
Lớn, rồi về tòng sự tại ban Huy chương, ban Hành Chánh 3, phòng TQT Bộ Tư
Lệnh Hải
Quân. Được một thời gian ngắn, được biết có mở khoá du học OCS, tôi dự
thi và trúng tuyển
theo học Anh Văn trường Boat School ở góc đường Duy Tân- Hiền Vương Sài
Gòn, tối đến
sinh hoạt với các huấn luyện viên Hoa Kỳ bên Hải Quân Công Xưởng. Sau 2
tháng học tập,
tôi được gửi đi thụ huấn hải nghiệp tại quân trường OCS.
Đến với quân trường OCS vào tháng 1 năm 1971. Tôi thuộc khoá 11 U/O ; (O là
chữ viết tắt
Officer, vì chúng tôi là Sĩ Quan Khóa Sinh). Có tất cả ba khóa 10, 11, và 12
mà đa số khóa
sinh là những Sĩ Quan Chiến Binh đã tốt nghiệp tại các quân trường Vỏ Bị
Đà Lạt hay Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức nhưng chưa có chuyên nghiệp quân sự. Sau ngày tốt nghiệp
OCS, sẽ được
cấp chuyên nghiệp quân sự nghành chỉ huy và được gọi là Hải Quân Thiếu
Úy, hay Hải Quân
Trung Úy... Trưởng toán của nhóm sĩ quan khóa sinh là Trung Úy Bùi Văn Quang.
Trưởng
tóan SVSQ là anh Trần Hải Mank. Sĩ Quan Mỷ đại đội trưởng là Trung Úy Robert
W. Auve.
Tại quân trường OCS, chúng tôi đã được huấn luyện, hải hành tập đội, cơ
khí phòng tai, hải
pháo, vận chuyển, lý thuyết tàu bè, cơ khí và lãnh đạo chỉ huy, hàng hải
cận duyên (Piloting),
dùng những điểm cố định trên bờ và la bàn để lấy hướng định toạ độ,
vị trí chiến hạm trên hải
đồ; hàng hải phỏng định (Dead reckoning), hàng hải viễn duyên về thiên văn
(Celestial
Navigation), dùng sextant đo vì sao biết được trong chòm sao, đưa xuống chân
trời lấy góc độ,
hướng, tra cứu sách thiên văn (Star finder, H.O. 214, Nautical Almanac) rồi vẽ
lên hải đồ vị trí
của con tàu; hàng hải điện tử, dùng ra đa để xác định vị trí. Chúng tôi
được thực tập trên các
tiểu đỉnh YP trong vùng vịnh Narragansette.
Học Trình tại quân trường OCS được họach định như sau:
VNN CURRICULUM BY SUBJECT AREA
SUBJECT AREA:
ORGANIZATIONAL DIVISION - HOURS
English Language (Naval Terminology) - 90
The Shipboard Team - 10
Division Officer Duties - 5
Total: - 105
TECHNOLOGICAL DIVISION
Operation and Maintenance of Shipboard Equipment
Introduction - 7
Engines - 21
Propulsion Drives - 15
Electricity - 22
Auxiliary Equipment - 15
ToTal: - 80 l
Casualty Control (Ship Construction, Damage Control and fire fighting)
Ship Compartmentation - 2
Fire fighting - 21
Dammage Control - 6
NBC Warfare - 2
Stability - 4
Deck Seamanship - 4
Total: - 25
TACTICAL DIVISION
OOD Procedures
YP' s - 12
Tactical Trainer - 6
Shiphandling Theory - 6
Radar - 4
OOD - 2
Total: - 30
Communication - 25
CPA - 8
Simple Formations - 11
Rules of the Road - 6
Total: - 50
Weapons - 14
Unconventional Warfare - 8
Amphibious Operations - 4
Mine Warfare - 2
Gunfire Support - 2
Total: - 30
NAVIGATION DIVISION
Introduction - 3
Charts and Aids to Navigation - 12
DR, Piloting - 14
Current - 10
Compasses, Instruments - 16
Sunrise and Sunset - 4
P-Works - 36
Celestial - 56
Total: - 151
Intro. To Celestial Navigation - 2
Time - 4
Time Diagram - 2
Nautical Almanac - 9
H.O. 214 - 6
Methode and Problem Solving - 6
Celestial Line of Position - 2
Sextant Familiarization and use - 4
Practical Work in Sights and Piloting - 12
Test - 9
Total: - 56
(Tài liệu từ quân trường OCS)
Sau ngày hòan tất việc huấn luyện tại OCS, Newport Rhode Island, các khoá sinh
được gửi đi
thụ huấn về "Chiến Tranh Sông Ngòi" (Riverine Warfare) tại Trung Tâm
Huấn Luyện
N.I.O.T.C. (Naval Inshore Operation Training Center) thuộc Mare Island, California. Các
khóa
sinh được thực tâp về đội hình, tác xạ, phục kích, tránh mìn, truyền tin,
vận chuyển trong sông
rạch trên những chiến đỉnh PBR, PCF. Trong những ngày thụ huấn tôi chỉ mong
thời gian
chóng qua mau để sớm trở về quê hương. Được biết các bạn cùng khoá:
Nguyễn Văn Bông,
Nguyễn Ngọc Chót, Nguyễn Hữu Hạnh, Huỳnh Trọng Nghĩa, Phạm Quang Huy, Đổ Anh
Tuấn, Đinh Sĩ Vụ, hiện định cư tại Hoa kỳ. Riêng Nguyễn Văn Sĩ (My
roomate/Thuyền
Trưởng PCF) đã tử nạn trong lúc đưa tàu đi tuần tiễu trên vùng biển Năm
Căn. Xin các bạn
mỗi người một lời cầu nguyện cho linh hồn anh Sĩ.
Sau ngày tốt nghiệp từ quân trường OCS trở về, tôi được bổ nhiệm về phục
vụ Giang Pháo
Hạm Thiên Kích HQ 329. Hạm trưởng là HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Sắc, khoá 11
Nha
Trang. Hạm phó HQ Trung Úy Nguyễn Bích Ngân, khóa 17 NT. Sĩ quan gồm có Nguyễn
Văn Phứơc khoá 19 NT, Lưu văn Nở, Khóa 20 NT, Võ văn Vân khóa 20 /CK/NT. Trần
Trung
Gấu, Khoá 21/CK/ N/T. SQ các khóa OCS gồm có: Võ văn Bé, Nguyễn Kim Tuấn, Trần
văn
Hai. Đa số sĩ quan ở tàu đều có gia đình ở Sài Gòn, riêng tôi và Trần
văn Hai là "con bà
phước" nên thường xuyên ở lại tàu trong khi hầu hết các sĩ quan khác
đều về với gia đình
trong những ngày tàu ở bến. Trong suốt thời gian tôi phục vụ tại HQ 329, hầu
hết thời gian
công tác của chiến hạm là hoạt động vùng Năm Căn, Vũng Tàu. Trong chuyến
công tác vùng
Năm Căn năm 1972. Tàu suýt bị trúng lance bomb do Việt Cộng phóng từ bờ. Lúc
đó, tôi
đang đứng cạnh khẩu đại pháo 76 ly, bỗng thấy vật lạ từ bờ nhảy trên mặt
nước hướng về phía
chiến hạm, nhưng may mắn là chiến hạm chạy giữa giòng sông, lance bomb bị
chìm trước khi
tới chiến hạm. Sau đó, Hạm Trưởng Sắc thuyên chuyển, HQ Thiếu Tá Lê Văn
Quế về thay
thế.
Khoảng tháng Giêng năm 1972, tôi được chấp thuận theo học khoá Căn Bản Sĩ
Quan Chiến
Tranh Chánh Trị tại Trung Tâm Huấn Luyện/CTCT/ Sài Gòn. Sau ngày tốt nghiệp,
được chỉ
định đảm nhiệm chức vụ Hạm Phó Tuần Duyên Hạm Song Tử HQ 614. Vì chiến hạm
đang
công tác, tôi phải đáp phi cơ ra Phú Quốc trình diện tân đáo. Được biết
vị Hạm Phó tiền
nhiệm là HQ Trung Úy Nguyễn văn Quít khoá 19 Nha Trang, thường được nhân
viên nhắc
nhở, ca tụng vì ông là một sĩ quan tài giỏi, nhiều kinh nghiệm. Sĩ quan tạm
thời thay thế Trung
Úy Quít là HQ Chuẩn úy Nguyễn Bão Đồng khóa 8 (?) OCS. Khi tôi đến đáo
nhậm thì Chuẩn
Úy Đồng đang nằm bịnh xá HQ Phú Quốc. Vài tháng sau, Chuẩn úy Đồng có
lệnh thuyên
chuyển đi đơn vị khác, và HQ Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Tòng khóa 22/NT về thay
thế. Kỷ
niệm đáng nhớ nhất về Chuẩn Uý Tòng đó là trong một lần công tác vùng
biển Hà Tiên, sau
khi bàn giao ca khoảng 12 giờ đêm lại cho anh. Tôi trở về phòng định đi ngủ,
thình lình tôi
nghe một tiếng "ầm" vang dội. Tòan thân tàu rung động, con tàu
nghiêng nghửa, Đại Úy Cố
Vấn Mỷ Dudley từ trên chiếc giừơng từng trên cao té xuống sàn tàu. Tôi có
cảm tưởng tàu sắp
lật úp và sẽ bị chìm. Tôi vội vàng lên đài chỉ huy, con tàu vẫn còn chòng
chành, Chuẩn Uý
Tòng cho biết có lẽ chiến hạm bị tàu Sealand đụng, bên hữu hạm bị vỡ một
khoảng gần nửa
thước cạnh khẩu đại liên phòng không 20 ly. Tôi cho bắn hỏa châu để quan
sát, nhưng chiếc
tàu gây ra tai nạn đã biến dạng vì trời tối và có quá nhiều tàu qua lại
lúc ấy nên không thể phát
hiện được.
Sau ngày mãn hạn công tác chiến hạm về Sài Gòn, khi tàu về gần đến Nhà
Bè, chúng tôi có
nhìn thấy một chiếc ghe nhỏ lái đâm đầu vào chiếc thương thuyền cở lớn,
ghe bị chìm, chúng
tôi dừng lại để cưú cấp, đợi khoảng 1 giờ, nhưng không thâý động tĩnh
gì chúng tôi tiếp tục
giang hành. Riêng chiếc thương thuyền, không biết có nhận thức tai nạn hay
không vẫn tiếp
tục chạy biến dạng. Tàu về nghỉ bến, đậu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Môt
sáng sớm, khi tôi
còn say ngủ, một thủy thủ đánh thức tôi dậy và cho biết tàu sắp chìm. Nhìn
qua phòng Hạm
trưởng thì thấy nước đã vào đến sàn tàu. Tôi vội vàng ra lệnh cột chặt
chiến hạm vào hai tàu
đậu kế bên, đồng thời gửi công điện thượng khẩn, yêu cầu BTL Hạm Đội
cho toán phòng tai
mang bơm xuống hút nước và đã cứu vãn được con tàu.
Trong thời gian phục vụ tại tuần duyên hạm HQ 614. Chiến hạm thường công tác
taị Phú
Quốc, Vũng Tàu, Năm Căn, Qui Nhơn, Nha Trang; nhưng nhiều nhất là Phú Quốc.
Đặc điểm
của Phú Quốc là tại An Thới, mũi Ông Đội, có dấu bàn chân trên mỏm đá,
luôn luôn có nước
ngọt rịn ra.
Dạo chơi An Thới ròng đôi bửa
Giọc nước Bãi Kem tắm nắng đào. (3)
Bãi biển khá đẹp, du khách có thể tắm thoải mái tại Bãi Kem, Bãi Dung, Gềnh
Dâu... Ngoài
khơi quanh đảo Phú Quốc, du khách có thể thăm viếng các đảo Thổ Châu (Poulo
Panjang),
Hòn Sơn Rái (Tamassou). Quán phở Bò Vàng và Hội Quán Bi Da do gia đình thân
hữu Đổ
Kỳ Nam khoá 6 OCS làm chủ là nơi qui tụ nhiều quân nhân đến ăn uống và
giải trí. Trong lúc
tuần tiễu vùng bắc đảo Phú Quốc, chúng tôi có dịp viếng thăm xứ Cao Miên.
Có lần, Hạm
trưởng Thiếu Tá Tùng, Đại Úy Cố Vấn Dudley và tôi vào hoang đảo, ném lựu
đạn bắt được rất
nhiều cá Thác Lác, có con dài hơn 1 mét. Khi chiến hạm tuần tiễu vùng cửa
sông Ông Đốc,
chúng tôi bắt được một ghe đánh cá Thái Lan vi phạm lãnh hải nước ta,
chúng tôi áp giải ghe
nầy về CCHQ/ Năm Căn. Sĩ Quan và Thủy Thủ đoàn mỗi người đựơc tưởng
thưởng sáu ngàn
đồng. Trong lần yểm trợ hải pháo gần Căn Cứ Hải Quân Năm Căn, HQ 614 đã
giải tỏa được
áp lực địch đang tấn công mãnh liệt vào đơn vị bộ binh, và đã đẩy lui
được kẻ thù.
Năm Căn muổi đói vo ve khóc
Sông chụm đầu nhau quẫy sóng ca. (4)
Sau ngày hiệp định Paris được ký kết đầu xuân 1973. Cùng lúc với lệnh
ngưng bắn được ban
hành là thông điệp của Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đọc sáng ngày 28
tháng 1 năm
1973, kêu gọi đề cao cảnh giác âm mưu lấn đất giành dân, đừng mắc vào
cạm bẫy của cộng
sản. Chúng tôi đang sắp khởi hành đi tuần tiễu thì nhận được lệnh công
tác đến vùng Hòn
Heo, gần tháp Hải Đăng Hà Tiên, theo chỉ thị, chúng tôi, phải triệt hạ lá
cờ của Việt Cộng
đang treo trên ngọn Hải Đăng đồng thời yểm trợ cho Biệt Động Quân đang
hành quân trong
vùng. Địch quân đã phục kích sẵn, chờ khi chúng tôi tiến sát gần bờ,
chúng dùng đại bác 57
ly, B40, AK 47, bắn tới tấp, chúng tôi vừa phản pháo, vừa rút lui ra vùng an
toàn, tránh khỏi
hỏa lực uy hiếp của địch. Trong một chuyến công tác khác, chúng tôi ghé lại
Hòn Heo, được
chúa đảo là một cụ già khoảng 70 tuổi ra đón rước, chúng tôi được dân
hải đảo thết tiệc bằng
món cháo lươn, nấu với bẹ môn, và họ trình diễn cho xem điệu múa Cao Miên
rất ngoạn mục.
Khi mọi người đã trở về chiến hạm, chúa đảo còn gửi một cô gái độ 20
tuổi mang tặng thủy
thủ đoàn 1 buồng chuối, chúng tôi nhận quà và ngỏ lời cảm ơn hảo ý của
dân hải đảo.
Sau chuyến công tác Năm Căn, chúng tôi về BTL Hạm Đội, nghỉ bến được 1
tuần lễ, thì nhận
được lệnh công tác vùng 2 Duyên Hải. Nha Trang nổi tiếng là nơi danh lam
thắng cảnh, với
hàng thùy dương và bãi biển cát trắng chạy dài từ Đại Lãnh-Văn Phong- Cà
Ná; ngoài khơi có
khoảng 6 hải đảo mà lớn nhất là Hòn Tre. - Hòn Yến, người ta có thể tìm
thấy yến sào do lòai
chim yến (Salegane) dùng nước miếng tạo ra, tổ yến được dùng làm thực phẩm
rất quí và đắt
tiền.
Non nước hữu tình nhất trời Nam
Nhàn du ngoạn cảnh ngắm danh lam
Tháp Bà nhẹ bước người vào viếng
Cầu Đá chen chân khách đến thăm... (5)
Khi cập bến Cầu Đá, tôi có gặp anh Phạm Đình Nhật Hà khoá 12 OCS và cũng
là người bạn
từ trại Bạch Đằng 2 & TTHL/ Quang Trung. Anh Hà là thuyền trưởng Coast
Guard. Khi tàu
nhập vùng được 1 tuần thì Hạm trưởng đi phép về Sài Gòn thăm gia đình,
còn lại một mình,
trẻ tuổi, lại ham vui; nghe theo lời "dụ dỗ" của thủy thủ đòan, tôi
và đòan tùy tùng, khoảng
tám người kéo nhau vào bờ dạo chơi gần căn cứ Đại Hàn ở Vũng Rô rồi ở
lại ngủ đêm, sáng
hôm sau, nhờ ghe đánh cá đưa ra tàu. May mắn cho chúng tôi đã không bị sát
hại ! Một lần
khác, chúng tôi tắt liên lạc vô tuyến vào Đại Lãnh, tìm thịt heo rừng cho
thủy thủ đoàn có
thêm chút dinh dưỡng. Chúng tôi có tặng một ít gạo cho vài gia đình tử sỉ
có thân nhân bị
cộng sản sát hại. Trong lúc đang quan sát lớp học với đám học trò trẻ con
nghèo xơ xác thì có
đòan ghe Yabuta, và phi cơ bay lượn vờn quanh. Những người lính trên tàu cho
biết, vùng 2
Duyên Hải đang báo động vì nghĩ rằng chúng tôi là tàu Bắc Việt xâm nhập.
Chúng tôi vội
vàng tách bến, trở lại vùng công tác.
Khoảng tháng 4 năm 1974, tôi mang chiến hạm HQ 614 ra đại kỳ ở Căn Cứ Hải
Quân Sơn
Chà. Sau ngày nghỉ phép từ Sài gòn trở ra Đà Nẵng, Tôi đã gặp lại anh
Trần Văn T, người bạn
thời niên thiếu cùng làng. Lúc gặp tôi, anh T là Thiếu Uý Bộ Binh ra Đà
Nẵng tân đáo đơn vị,
T có nhờ tôi trao lại phong thư cho người yêu của anh ở Mỷ Tho. Tôi đã làm
điều mà anh căn
dặn; nhưng " tiếc thay rằng tình chung không ngủ trên môi" (?), chĩ
sau ba ngày sau, trên
đường trở về Saì Gòn để đáp phi cơ ra Đà Nẳng, tôi đã gặp người tình
của T đan tay dạo phố
với một HQ Trung Úy! Trong thời gian tàu đại kỳ ở Đà Nẵng, quân số chiến
hạm đã giảm
thiểu chỉ còn độ 1/3, chỉ đủ canh gác và thử đường trường. Tôi và Hạm
Trưởng Tùng ngòai
thời gian liên lạc hợp tác với hải xưởng Đà Nẵng để cho công việc Đại
Kỳ tiến hành tốt đẹp,
chúng tôi có được chút thời giờ viếng thăm thành phố Đà Nẵng. Rất tiếc,
dạo đó tôi đã không
có dịp ra Huế để viếng Cố Đô. Du lịch Đà Nẵng, du khách nên viếng những
thắng cảnh và di
tích lịch sử địa phương như: Đèo Hải Vân, Ngũ Hành Sơn, Núi Bà Nà, Chùa
Linh Ứng, và
Viện Bảo Tàng Chàm. Mỗi chiều cuối tuần Lê Văn Nhẫn (Cùng làm chung với tôi
ở phòng
TQT /BTL/ HQ năm 1970), Nguyễn Cao Bách, Bác Sĩ Phạm Khắc Hiệu, Dược Sĩ Cao
Thái
Thành (tất cả các bạn đều là Trung Úy), mang xe jeep đón chúng tôi đi dạo
phố Đà Nẵng, ghé
quán Thiên Nga, Thạch Thảo, ăn kem, chè, uống cà phê. Đôi khi, những ngày
cuối tuần, tôi
còn có cơ hội bay về Sài Gòn để thăm người yêu. Cuối tháng 7 thì công
việc đại kỳ đã hoàn
tất. Hải quân Đại Uý Nguyễn Hữu Thiện về thay thế HQ Thiếu Tá Nguyễn Văn
Tùng. Đại Úy
Thiện và tôi đưa chiến hạm về Sài Gòn.
Sau hơn ba năm phục vụ trên 2 chiến hạm thuộc Hạm Đội, tôi được ân
thưởng bằng Tưởng
Lục, Chiến Dịch, Quân Vụ, Kỷ Thuật, và Hải Vụ Bội Tinh; tôi xin học khóa
Trung Cấp CTCT
và được chấp thuận. Sau khi bàn giao chức vụ Hạm phó cho HQ Trung Úy Nguyễn
Hữu
Minh, tôi về trình diện BTL/HQ/ P. CH, và được gữi đi thụ huấn tại Đại Học
CTCT Đà Lạt.
Ban giảng huấn trường Đại Học CTCT gồm có: Tiến Sĩ Nguyễn Thị Huệ, Tiến Sĩ
Phó Bá
Long, Tiến Sĩ Nguyễn Hoàng Giáp, Tiến Sĩ Thượng Tọa Thích Giác Đức, Linh
Mục Nguyễn
Văn Vàng, Luật Sư Nguyễn Hữu Thống,và các Sĩ Quan cơ hữu của trường. Chúng
tôi học về
Tình Báo, Tâm Lý Chiến, Chính Huấn...
Trường Đại Học CTCT tọa lạc trong thành phố Đà Lạt, thị trấn nổi tiếng
với Trường Võ Bị,
thác Cam Ly, hồ Than Thở,
Đứng trên triền dốc nhìn xuống hàng thông.
Hàng cây thẫm màu đèn lên phố phường...
... Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ
Màu lam tím Đà Lạt sương phủ mờ... (6)
Sau ngày ra trường, tôi được bổ nhậm vào ban Giáo Dục Chính Trị thuộc Bộ
Tư Lệnh Hải
Quân/ Phòng Chính Huấn. Trưởng Phòng là HQ Trung Tá Phạm Thành Long. Sĩ Quan
gồm
có các Đại Úy CTCT: Đỗ Hửu Danh, Lê Văn Soại, Hòa. Sĩ Quan OCS: Lê Tín
Thành, Nguyễn
Thái Hùng. Chuẩn Úy Đòan Viên Lê Thùy Anh. Trong thời gian nầy, tôi có gặp
bạn Hà Đăng
Ngân (OCS 8), người về từ Hoàng Sa; anh kể lại trận chiến lịch sử mà các
chiến hữu HQVN
đã can trường chiến đấu chống quân xâm lược Trung Cộng vào tháng Giêng
năm 1974. Được
biết Ngân hiện định cư tại Hoa Kỳ, mong anh tường thuật lại thiên phóng sự
hãn hữu mà anh
đựơc vinh dự tham chiến.
Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tôi có nhiệm vụ tiếp đón các
đơn vị di tản chiến
thuật từ miền Trung về tạm trú tại Căn Cứ Hải Quân Cát Lái. Từng đoàn tàu
từ miền Trung,
đưa binh sĩ, gia đình quân nhân cùng đồng bào tị nạn. Hàng vạn đồng bào
và quân nhân đã
được đón nhận tại căn cứ này. Thực phẩm không đủ phân phối cho tất cả
moị người. Tôi cũng
nhận được tặng vật của một nhà hảo tâm trao tặng gồm hai xe chở đầy chao
và phân phối cho
tất cả mọi người. Khoảng 1 tuần lễ trước ngày 29/4/75., trong khi tôi đang
thuyết trình tại Câu
Lạc Bộ nổi BTL/HQ thì được lịnh hòan trả súng đạn lại kho vũ khí. Các
chiến hạm cập bến tại
Sài Gòn được tiếp tế thực phẩm, nhiên liệu đầy đủ. Đêm 28/4/75., Việt
Công pháo kích, đạn
pháo rớt xuống sông Sài Gòn và khách sạn Majestic. Trưa ngày 29/4/75., tôi
ngạc nhiên khi
nhìn thấy đồng bào đổ xô xuống tàu càng lúc càng đông. Khoảng 4 giờ
chiều, tôi quá giang
Đại Uý CTCT Đỗ Hữu Danh về nhà. Khi tôi trở lại Bộ Tư Lịnh Hải Quân và
khoảng 6 giờ
chiều thì có lệnh tập hợp, HQ Đại Tá Đỗ Kiểm thông báo: Sĩ Quan hãy về
nhà đưa gia đình
theo Hạm Đội di chuyển chiến thuật ra Côn Sơn. Tôi vội ra trước cổng BTL/HQ
thì gặp HQ
Trung Úy Lê Minh Đạo khóa 10 OCS. Anh Đạo hốt hoảng hỏi nên làm gì ? Tôi
khuyên anh
nên đưa gia đình di tản theo Hạm Đội. Khi ra khỏi cổng, tôi gặp được
người lính cũ ở HQ
614. Anh đã dùng xe Honda đưa tôi về nhà tận phi trường Tân Sơn Nhất. Khi
tôi vào nhà thì
cả gia đình đang chờ tôi. Nhạc mẩu tôi cùng gia đình mang hành lý rời nhà khoảng 100 mét
thì đạn pháo kích nổ gần bên làm mọi người hoảng sợ chạy trở về nhà. Mẹ
vợ tôi đưa tiền cho
vợ tôi và khuyên chúng tôi hãy ra đi. Những người đi theo tôi lúc bấy giờ
chỉ còn có đứa cháu
thuộc binh chủng Không Quân, hai mẹ con người hàng xóm và vợ tôi. Khi chúng
tôi rời nhà
khoảng một cây số thì may gặp một quân nhân thuộc binh chủng Nhảy Dù đang
lái xe jéep,
chúng tôi xin quá giang và được anh đưa đến cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Tôi ngỏ ý là nếu
anh muốn, tôi có thể giúp anh cùng xuống tàu theo Hạm Đội. Anh cám ơn, nhưng
từ chối, và
cho biết sẽ ở lại tử thủ. Tôi tặng anh số tiền mà mẹ vợ tôi vừa cho. Vào
tới Bộ Tư Lệnh thì đã
10 giờ tối, Thượng Sỉ Định, Quản Nội Trưởng có đưa tôi khẩu súng Carbine
mang theo để
phòng thân, tôi không lấy, chỉ mang theo chiếc chăn ngủ. Khi tôi và gia đình
đến bến, tàu đã
đầy ứ người. Bình thường, Khu Trục Hạm Trần Hưng Đạo/ HQ 1 chỉ chứa
được khoảng 200
người. Lúc đó, theo tôi phỏng định, có vào khoảng 2000 người. Một số quân
nhân khóc nức
nở vì không mang đựơc gia đình theo! Vài sĩ quan trẻ quá thất vọng, đã
nông nổi vứt cả súng
ống xuống sông. Khi tầu ra gần Vũng Tàu thì Phó Đề Đốc...(?) ghé tàu để
đón gia đình. Khi
tàu cập bến bị bể bên hông phía sau lái. Đến Côn Sơn, tất cả chiến hạm
tụ họp lại với nhau và
được loan báo là Hạm Đội sẽ rời Việt Nam để đi Phi; sẽ có chiến hạm
đưa những người muốn
ở lại trở về Vũng Tàu. Gia đình tôi chuyển sang Cơ Xưởng Hạm Cần Thơ HQ
801 vì HQ 1
chứa quá nhiều người và bị hư hại. Trên hải trình đi Phi, HQ 801 cũng đón
nhận thêm nhiều
quân nhân cùng đồng bào muốn quá giang. Chiến hạm cũng cho phép một phi cơ
trực thăng
hạ cánh mang theo một Đại Tá Bộ Binh, đoàn tuỳ tùng và viên Phi Công. Tình
trạng sinh hoạt
trên chiến hạm ngày thêm tồi tệ, khan hiếm thực phẩm và nước uống; may mắn,
tôi tìm được ít
cơm khô mà ai đó đã phơi cạnh bên ống khói tàu. Có lần vợ tôi quá đói,
đau lòng khi thấy thai
nhi bò quậy trong bụng mẹ, tôi liều lĩnh vào khu ẩm thực định tìm chút
nước uống và thực
phẩm cho vợ thì bị một Thiếu Uý Bộ Binh (?) cản đường không cho vào. Tôi
lên phòng Sĩ
Quan tìm bạn. May mắn, gặp được HQ Trung Úy CK Lê Đăng Bảo, (Khóa 21 Nha
Trang)
anh Bảo cho vài hộp cá hộp, nhờ đó mà vợ con tôi đở đói. Hôm sau lại
được tàu chở dầu của
anh Lý Thái Thạnh (Thân hữu Bạch Đằng 2 & Quang Trung), anh Thạnh tặng hai
thùng chao.
Tôi chia sẻ lại cho đồng bào, chỉ giữ lại vài hộp. Lúc đó, tôi thật vô
cùng cảm kích, các bạn đã
nhường thực phẩm của chính mình cho chúng tôi trong lúc khan hiếm,
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc nghĩa so nghìn trùng. (?)
Trước khi chiến hạm vào lãnh hải Phi Luật Tân, chúng tôi không khỏi ngậm
ngùi khi nhìn
thấy lá quốc kỳ VNCH được hạ xuống để chuyển giao tàu lại cho người Mỹ.
Từ Phi, chúng tôi
được chuyển sang một thương thuyền khác để sang đảo Guam. Tại Guam, nhiều
trại lính bằng
vải bố đã được dựng sẵn. Trên đoạn đường dài và rộng, có nhiều nhà
tắm và nhà vệ sinh lộ
thiên. Ngày ba buổi, người tị nạn xếp hàng đi nhận thức ăn. Sống ở trại
tỵ nạn được khoảng
một tháng thì chúng tôi được chuyển đến trại Indiantown Gap tiểu bang
Pensylvania. Tại đây,
vợ tôi đã hạ sanh đứa con đầu lòng và chúng tôi đã đặt tên cho cháu là
Hòai Nam để tưởng
nhớ về Quê Hương Việt Nam.
Khi tình nguyện gia nhập binh chủng Hải Quân, tôi chỉ có một ý niệm đơn
thuần: Thi hành
nhiệm vụ công dân. "Quốc Gia hưng vong, thất phu hữu trách" (?). Tuy
nhiên, qua Trại Bạch
Đằng 2 và những quân trường thụ huấn (Tổng Quản Trị, Đại Học CTCT, Sĩ Quan
Trừ Bị,
OCS.), ngòai những kiến thức cần thiết cho một Sĩ Quan Hải Quân học hỏi
được, tôi còn may
mắn quen thân nhiều bằng hữu quí mến, các bạn là những thanh niên ưu tú,
đã nhiệt tình đáp
ứng lời kêu gọi của Tổ Quốc khi Sơn Hà nguy biến. Binh Chủng Hải Quân đã
cho tôi cơ hội
trực tiếp đi, thấy, phụng sự quê hương, và thủ đắc được nhiều kinh
nghiệm mà tôi khó có thể
tìm thấy ở đời sống dân sự. Với tất cả tấm lòng chân thành của một
người dân yêu nước,
chúng ta đã dâng hiến quãng đời thanh niên tươi đẹp nhất để chiến đấu
cho Quê Hương Việt
Nam được độc lập, tự do, dân chủ, thịnh vượng và tiến bộ. Nhưng rồi vận
nước không may,"
mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên !" "(?). Biến cố đổi đời 30
tháng 4 năm 1975 đã đưa đẩy tôi
lưu lạc hơn nữa vòng trái đất. Ngày nay, dù cuộc sống ở Hoa Kỳ đã tương
đối được ổn định,
nhưng mỗi lần hồi tưởng về cuộc chiến cũ, tôi không khỏi ngậm ngùi:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ! (7)
Thượng Đế vẫn còn dành cho Quê Hương Việt Nam nhiều khổ lụy!
"Bắt
phong trần phải
phong trần. Cho phong lưu mới được phần phong lưu." (8).
Lê Ngọc Trùng Dương
------------------------------
Ghi Chú: BR>(?) Không nhớ tên.
(1) Nhạc phẩm Lời Tình Buồn. Vũ Thành An.
(2) Nhạc phẩm Vườn Tao Ngộ. Nhật Hà.
(3)&(4) Thơ Thiên Cổ Bùi Ngùi. Phạm Hồng Ân.
(5) Thơ Nha Trang Tâm Bút. Nguyễn Vĩnh Châu.
(6) Nhạc phẩm Đà Lạt Hoàng Hôn. Minh Kỳ & Dạ Cầm.
(7)&(8) Thơ Truyện Kiều. Nguyễn Du.
|