Tổng Kế
Hải-Chiến Hoàng
Sa
-Trích
bài của Gs Bs.
Trần Ðại Sỹ
Lời Giới-thiệu :
Đây chỉ là một tài liệu
cá nhân, cần được các nhà nghiên cứu lưu tâm suy luận.
Trong bài "Bí Mật Vụ Hiến Ðất Dâng Biển", Giáo-Sư Bác-Sĩ Trần Ðại-Sỹ
viết về những thiệt-hại của Hải-Quân
Trung-Cộng trong trận Hải-Chiến Hoàng-Sa vào tháng 1-1974 như sau:
-----
3.3, Bí
ẩn vụ Trung-quốc chiếm Hoàng-sa (Tây-sa)
Từ trước đến giờ, có nhiều vị
hiện diện hôm nay từng đặt câu hỏi với tôi rằng:
_ Tại sao năm 1974, thình lình
Trung-quốc đem quân đánh quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) từ VNCH.
Trận chiến diễn ra ngắn ngủi, phía Trung-quốc bị thiệt hại
gấp ba VNCH (về nhân mạng, về chiến hạm, tài liệu này tôi có từ phía
Trung-quốc). Nhưng VNCH vì quân ít, vũ khí chỉ có
đại bác, chiến hạm nhỏ. Trong khi Trung-quốc có hỏa
tiễn địa-địa, chiến hạm lớn đông gấp bội VNCH. VNCH
lại đang có nội chiến, phải đương đầu với quân đội VNDCCH, vì vậy VNCH phải bỏ
kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa. Bấy giờ Hoa-kỳ với VNCH có hiệp ước hỗ
tương an ninh, Hoa-kỳ đang tham chiến tại Việt-Nam, hạm đội 7 hùng hậu đang
tuần hành gần vùng giao chiến. Tại sao Hoa-kỳ không can thiệp, không lên tiếng
bênh vực VNCH? Ngay việc thủy thủ VN, tầu bị chìm, mà hạm đội 7 cũng không vớt
theo luật hàng hải Quốc-tế.
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 4,
_ Xin Gs cho biết trong trận
hải chiến này, phía Trung-quốc, VNCH, bên nào nổ súng trước?
Gs TĐS,
_ Thưa VNCH. Hải-quân VNCH rất
thiện chiến, tác xạ rất chính xác, các sĩ quan đều được huấn luyện
theo tiêu chuẩn Âu-Mỹ, thêm kinh nghiệm VN.
Ngay loạt đạn đầu tiên khiến 4 hạm trưởng Trung-quốc tử
trận.
Tôi xin trở lại đầu đề:
Vì:
Trong-cuộc mật đàm giữa Hoa-kỳ
(Kissinger) và Trung-quốc (Mao Trạch Đông). Phía
Trung-quốc trao cho ông Kissinger bản tuyên bố lãnh hải
4-9-1958
cùng bản đồ.
Ông Kissinger đã công nhận bản tuyên bố đó. Cho nên
ông Kissinger vừa rời Trung-quốc hai ngày, thì ngày 11 tháng 1 năm 1974,
Trung-quốc tuyên bố hai quần đảo Tây-sa (Hoàng-sa) và Nam-sa (Trường-sa) là
của Trung-quốc, rồi Trung-quốc đem hạm đội xuống Hoàng-sa. Bấy giờ Hoàng-sa do
VNCH trấn đóng.
Vì:
Văn thư của ông Phạm Văn-Đồng
công nhận quần đảo này là của Trung-quốc. Trung-quốc chiếm Hoàng-sa chỉ là
việc chiếm lại lãnh thổ được văn thư 14-9-1958 công
nhận. Nghĩa là Trung-quốc chiếm lại lãnh thổ đã bị VNCH xâm
lăng 16 năm.
Ngắt đoạn 4,
Cử tọa hỏi, câu hỏi 5, cấm phổ
biến
Về nguồn gốc tài liệu cuộc mật
đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông và Cố-vấn Kissinger. Gs
Trần trình bày chi tiết. Toàn bộ cử tọa chấp nhận;
nhưng chúng tôi bị cấm không được phổ biến.
Sau khi Gs Trần trình bầy, một
trong ba vị chủ toa phát biểu:
Tôi xin bổ túc những gì Gs
Trần lướt qua. Bấy giờ (1974) là thời điểm chiến tranh
Đông-dương đang diễn ra cực kỳ sôi động, mà tình hình giữa Liên-sô với
Trung-quốc cũng căng thẳng cực kỳ. Qua những cuộc
mật đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông với Cố-vấn Kissinger; Trung-quốc, Hoa-kỳ
đã đi đến những thỏa thuận quan trọng. Rồi
Tổng-thống Richard Nixon thăm Trung-quốc.
Chúng ta
đều biết sự hiện diện, của Hoa-kỳ tại Đông-dương là ngăn chặn hai mũi dùi
Cộng-sản từ Afghatistan, Đông-dương nối với nhau.
Bây giờ Hoa-kỳ biết chắc Trung-quốc, Liên-sô không thể hàn
gắn lại, khối Cộng bị vỡ làm nhiều mảnh. Vì vậy sự
hiện diện của Hoa-kỳ trở thành vô ích, vừa tốn tiền, vừa tốn máu. Cho
nên họ muốn rút ra khỏi Đông-dương, dùng Đông-dương làm bình xăng tưới vào
ngọn lửa đang thiêu đốt căn nhà ngoại giao Trung-Sô.
Chìa khóa
của Đông-dương là Việt-Nam.
Mà tại Việt-Nam, mọi quyết định do Bộ Chính-trị. Chủ-tịch Hồ Chí Minh chết 5
năm rồi, vấn đề tranh quyền đã ngã ngũ, phe chạy
theo Liên-sô Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thắng thế. Trung-quốc
biết rất rõ. Suốt bao năm Trung-quốc cưu mang cho Bắc VN, nay bỗng dưng
Trung-quốc mất hết, chỉ còn tay trắng ư?
Trung-quốc phải kiềm chế Bắc VN.
Thế nhưng Trung-quốc muốn kiềm chế mà không được.
Mao tìm cách nắm Cambodge mà bấy giờ Cambodge còn nằm trong
tay Bắc VN. Vì vậy Trung-quốc
muốn tìm cách dùng Nam VN (VNCH) làm bức tường cản Bắc Việt-Nam (VNDCCH).
Trung-quốc tìm cách gần Nam VN bằng hai ngả:
Ngả thứ nhất: Mật sứ của
Trung-quốc tại Londre gặp Đại-sứ Nam VN (VNCH) ngỏ ý cho biết Hoa-kỳ đang muốn
trao VNCH cho Bắc VN. Nếu VNCH muốn, Trung-quốc sẽ giúp như sau: Mặt Bắc, chặn
con đường tiếp tế từ đường bộ Liên-sô qua lãnh
thổ trung-quốc.
Trung-quốc đem đại quân ép Bắc biên.
Mặt
Nam tiếp tế vũ khí cho VNCH.
Như vậy bắt buộc Bắc VN phải rút quân về.
Ngả thứ nhì, Trung-quốc qua
mấy nhân vật trí thức VN trong Phong Trào Liên Bang Đông Nam Á (hội tư luật
1901) tại Paris, trực tiếp nói cho Tổng-thống, và Bộ Ngoại-giao VNCH biết rằng:
Việc Hồng-quân tiến xuống Trường-sa chỉ là cái cớ để Trung-quốc với VNCH ngồi
vào bàn hội nghị. Nhưng không rõ VNCH có biết hay không,
mà lại khai hỏa trước.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 6,
_ Hồi đầu năm 1974, tôi có đọc
trên một tờ báo Anh-ngữ xuất bản tại Hương-cảng tường thuật về trận đánh giữa
VN (VNCH) và Trung-quốc ngày 19-1-1974 trong vùng quần đảo Hoàng-sa. Giáo-sư
có thể cho biết: Lực lượng tham chiến của hai bên ra sao? (Người đặt câu hỏi
nguyên là Đô-đốc)
Gs TĐS,
_ Thưa Ngài tôi xin chiếu lên
màn ảnh để Ngài thấy.
Về phía VNCH,
1, Lực lượng tham chiến,
_ Khu trục hạm Trần Khánh Dư,
ký số HQ4, hạm trưởng là Trung-tá Vũ Hữu San.
_ Tuần
dương hạm Trần Bình Trọng, ký số HQ5, hạm trưởng là Trung-tá Phạm Trọng Quỳnh.
_ Hộ tống
hạm Nhật-tảo, ký số 10, hạm trưởng là Thiếu-tá Ngụy Văn Thà.
Khi chiến hạm hỏng máy, bị chìm, trong khi tất cả thủy thủ
đoàn xuống xuồng chạy, thì ông cương quyết ở lại, chết với tầu của mình.
Tuẫn quốc.
_ Tuần
dương hạm Lý Thường Kiệt, ký số HQ16, hạm trưởng là Trung-tá Lê Văn Thự.
2, Lực lượng trừ bị,
_ Tuần dương hạm Trần Quốc
Toản, ký số HQ6,
_ Hộ tống hạm Chí-linh, ký số
HQ11
_ Không quân: Phi -đoàn
F5-A37.
Nhưng lực lượng trừ bị
Hải-quân ở quá xa chưa kịp can thiệp thì trận chiến đã kết thúc. Không quân
thuộc Quân-khu I, không can thiệp. Vì vậy sau trận đánh, Tư-lệnh Hải-quân ra
lệnh cho các sĩ quan tham dự, không thuyết trình cho Tư lệnh quân khu I.
Về phía Trung-quốc,
1, Lực lượng tham chiến
_ Hộ tống hạm Kronstadt, ký số
271, hạm trưởng là Đại-tá Vương Kỳ Uy, tử thương.
_ Hộ tống
hạm Kronstadt, ký số 274, hạm trưởng là Đại-tá Quan Đức. Đây là soái hạm của
chiến dịch.
Tư lệnh mặt trận là Đô-đốc Phương Quang Kinh, Tư-lệnh phó
hạm đội Nam-hải của Trung-quốc với bộ tham mưu đi trên chiến hạm này.
Khoảng giữa trận chiến, ông cùng bộ tham mưu tử thương (1 Đô-đốc,
4 Đại-tá, 6 Trung-tá, 2 Thiếu-tá, và 7 sĩ quan cấp
úy).
_ Trục lôi
hạm, ký số 389, hạm trưởng là Trung-tá Triệu Quát, tử thương.
_ Trục lôi
hạm, ký số 396, hạm trưởng là Đại-tá Diệp Mạnh Hải, tử thương.
_ Phi tiễn đỉnh Komar 133,
trang bị hỏa tiễn địa-địa Styx hạm trưởng là Thiếu-tá Tôn Quân Anh,
_ Phi tiễn đỉnh Komar 137,
trang bị hỏa tiễn đĩa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Mạc Quang Đại,
_ Phi tiễn đỉnh Komar 139,
trang bị hỏa tiễn địa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Tạ Quỳ,
_ Phi tiễn đỉnh Komar 145,
trang bị hỏa tiễn địa-địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Ngụy Như.
_ 6 Hải
vận hạm chở quân.
2, Lực lượng trừ bị,
_ 2 Tuần dương hạm,
_ 4 Pháo-hạm,
_ 4 Khu trục hạm trang bị hỏa
tiễn Kianjiang.
_ 2 Phi đội MIG 19,
_ 2 phi đội MIG 21,
Do chính Đô-đốc Tư-lệnh hạm
đội Nam-hải chỉ huy. Chúng tôi không biết tên ông.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 7,
_ Tổn thất 2 bên ra sao? (Vẫn
vị cựu Đô-đốc trên)
Gs. TĐS
_ Xin mời ngài xem bảng so
sánh, tôi chiếu lên.
Về phía VNCH,
_ HQ 4-5-16 bị thương, rút về
Đà-nẵng, sau khi sửa chữa, lại hoạt động như cũ.
_ HQ10 bị
chìm.
_ Một hạm
trưởng tử thương.
Về phía Trung-quốc,
_ Tư lệnh mặt trận, bộ tham
mưu và 4 hạm trưởng tử thương,
_ Hộ tống hạm 274 bị chìm.
_ Hộ tống
hạm 271 và hai trục lôi hạm 389-396 bị hư hại nặng phải ủi bãi, sau đó phải
phá hủy.
_ 4 ngư
thuyền chở quân bị chìm.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 8,
Cấm phổ biến.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 9,
_ Tôi nghe Hoa-kỳ trang bị cho
VN (VNCH) những vũ khí, cũng như chiến hạm tối tân nhất.
Trong khi Giáo-sư chiếu hình 4 chiến hạm tham chiến đều thuộc loại hạ thủy vào
thập niên 1940, quá cũ kỹ. Vũ khí cũng vậy.
Tại sao VN (VNCH) không đem những chiến hạm, vũ khí tối
tân ra tham chiến? (Người đặt câu hỏi nguyên là kỹ
sư hàng hải).
Gs TĐS,
_ Thưa quả đúng như Ngài nhận
xét. Tất cả chiến hạm Hoa-kỳ viện trợ cho VNCH đều thuộc
loại phế thải. Thay vì Hoa-kỳ phá hủy, họ tân trang
lại rồi trao cho VN. Bốn chiến hạm tham dự trận
đánh đều là những chiến hạm tốt nhất mà VN nhận được.
HQ4 hạ thủy năm 1943. (Cử tọa
bật cười). HQ5 hạ thủy năm 1944.
HQ10 hạ thủy năm 1942. HQ 16 hạ
thủy năm 1942. Còn vũ khí, cũng có chiến hạm trang
bị loại đại bác bắn liên thanh. Nhưng khi trao cho
VN thì Hoa-kỳ tháo đi. Dường như Hoa-kỳ đoán trước
có cuộc hải chiến này, nên một chiến hạm trang bị loại đại bác trên, tuy đã
trao cho VNCH, nhưng bị tháo đi trước đó mấy tháng.
Bằng không phía Trung-quốc bị thiệt hại còn nặng hơn nhiều.
Cử tọa hỏi, câu hỏi 10,
_ Trong quá khứ, giữa VN với
Trung-quốc đã xẩy ra những trận thủy chiến nào? Kết quả ra
sao? (Người hỏi nguyên là giáo sư sử Đông-Á)
Gs TĐS,
_ Thưa Ngài trong lịch sử 5000
năm của Hoa-Việt, chiến tranh liên miên. Về bộ chiến, kị
chiến thì cả hai bên khi khi thắng khi bại. Duy
thủy chiến, bao giờ Việt cũng thắng.
Cử tọa hỏi câu hỏi 11,
_ Xin cho biết những trận nào?
Gs TĐS,
_ Trận cổ nhất vào năm 42 sau
Tây-lịch. Chiến địa xẩy ra ngoài biển Đông.
Đô-đốc Trung-quốc là Đoàn Chí.
Đô-đốc Việt là Trần Quốc, một nữ tướng. (Cử tọa ồ
lên). Kết quả hạm đội Trung-quốc bị đánh chìm hết.
Đoàn Chí bị giết.
_ Hồi đó người Việt
theo chế độ mẫu hệ ư?
_ Thưa
không. Nhưng vị
Hoàng-đế cai trị là một phụ nữ.
Trong suốt năm nghìn năm lịch sử, đời nào VN cũng có những nữ tướng kiệt hiệt.
_ Hiện có
còn chứng tích nào về vị nữ Đô-đốc này không?
_ Nếu Ngài du lịch VN, xin tới
Hà-nội, thuê xe, bảo tài xế đưa đến làng Hoàng-xá,
xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm là nơi có đền thờ bà. Tôi xin
chiếu vidéo về đền thờ này. (chiếu vidéo 5
phút).
_ Thưa Ngài trận thứ nhì do
Vua Ngô (938), trận thứ ba do vua Lê (981), trận
thứ tư do Hưng Đạo vương (1288). Cả ba trận sau đều diễn
ra trên sông Bạch-đằng, Trung-quốc đều bị bại. Trận 1288 là trận khủng
khiếp nhất, bên Trung-quốc do vua Mông-cổ là Hốt Tất Liệt ở ngôi.
Kể từ đó cho đến năm 1974, mới có trận Hoàng-sa.
Đền thờ
công chúa Gia-hưng Trần Quốc, đại đô đốc thời Lĩnh-Nam (vua Trưng), tại làng
Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm, Hà-nội.
Bốn chữ đại tự trên là VẠN CỔ ANH PHONG. Có 3 câu
đối ở mặt tiền, câu thứ 2 nói lên huân nghiệp của ngài:
Tô khấu tước bình trực bả quần
thoa đương kiếm kích,
Trưng vương dực tải hảo tương
cân quắc hộ sơn hà.
( Bình
giặc Tô Định, đem quần thoa, chống với kiếm kích. Phò Trưng vương, đem khăn
yếm giữ non sông)
…
Xin xem tiếp:
http://hannamquan.com
Bs. Trần Ðại Sỹ
Bí mật vụ hiến đất dâng biển: Cắt 789 Km vuông, lùi 5 Km